
Nhân kỷ niệm 80 năm ngày Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2025) và 80 năm ngày Truyền thống ngành Tài chính (28/8/1945 – 28/8/2025), trao đổi với Tạp chí Kinh tế - Tài chính về vai trò của chính sách tài chính trong kỷ nguyên mới, TS Nguyễn Đức Kiên, nguyên Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh, để đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số, Việt Nam cần phát huy hiệu quả các công cụ tài khóa, tận dụng hợp lý dư địa bội chi, tăng cường vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực mũi nhọn, đồng thời đẩy mạnh đầu tư công có chọn lọc để tạo ra sức lan tỏa cho toàn nền kinh tế.

Phóng viên: Ông đánh giá như thế nào về vai trò của chính sách tài chính trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới?
TS Nguyễn Đức Kiên: Trong gần hai nhiệm kỳ Chính phủ vừa qua, vai trò của chính sách tài khóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ngày càng được nâng cao rõ nét.
Trước đây, trong một thời gian dài, chính sách tài khóa của chúng ta chưa thực sự đáp ứng được kỳ vọng. Nguyên nhân chủ yếu là do quá trình chuyển đổi từ mô hình tài chính kế hoạch hóa tập trung sang tài chính của nền kinh tế thị trường còn chậm. Do đó, tư duy hoạch định chính sách vẫn chịu ảnh hưởng đáng kể từ các công cụ điều hành quen thuộc trong giai đoạn kinh tế kế hoạch hóa, thay vì vận hành theo các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường hiện đại.
Tuy nhiên, khoảng 8 năm trở lại đây, chính sách tài khóa của Việt Nam đã có những chuyển biến rõ rệt cả về tư duy và hành động. Đặc biệt trong nhiệm kỳ 2021–2025, chính sách tài khóa đã đạt được nhiều đột phá quan trọng, thể hiện vai trò chủ động, linh hoạt và dẫn dắt trong điều hành vĩ mô.
Có thể khẳng định rằng, chính sách tài chính – tài khóa, cùng với chính sách tiền tệ, đang trở thành hai trụ cột chính trong việc hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Đặc biệt, trong nhiệm kỳ hiện tại của Chính phủ, vai trò của chính sách tài khóa tiếp tục được củng cố và phát triển theo hướng ngày càng phù hợp hơn với xu thế chung của kinh tế toàn cầu.
Theo đó, việc xây dựng nền kinh tế dựa trên sự kết hợp đồng bộ và hài hòa giữa 2 chính sách vĩ mô chủ đạo: chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa – hay còn gọi là "đi bằng hai chân".
Trong số những điểm nhấn nổi bật, có thể thấy rõ vai trò tiên phong của chính sách tài khóa trong việc hỗ trợ doanh nghiệp trong các tình huống bất khả kháng như thiên tai hay đại dịch COVID-19.

Bên cạnh đó, chính sách đầu tư công – đặc biệt là ở các dự án trọng điểm quốc gia như: dự án đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông và một số dự án hạ tầng chiến lược – đã cho thấy, chính sách tài khóa đang đóng vai trò đi đầu, tạo động lực và tháo gỡ nút thắt phát triển trong lĩnh vực hạ tầng.
Nhờ những bước đi kịp thời và hiệu quả của chính sách tài khóa, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng ở mức cao so với mặt bằng chung của thế giới. Đây là một minh chứng rõ nét cho vai trò quan trọng của chính sách tài khóa trong ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bước vào kỷ nguyên phát triển mới, chính sách tài chính sẽ tiếp tục giữ vai trò then chốt trong việc khơi thông các nguồn lực, tạo lập môi trường đầu tư – kinh doanh thuận lợi, từ đó góp phần nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh và thúc đẩy phát triển kinh tế mạnh mẽ, bền vững.

Phóng viên: Trong thời gian tới, ngành Tài chính cần lưu ý gì trong xây dựng chính sách tài chính hỗ trợ các thành phần doanh nghiệp phát triển, thưa ông?
TS Nguyễn Đức Kiên: Có thể nói, trong thời gian qua, các chính sách do Bộ Tài chính được giao chủ trì soạn thảo và trình Chính phủ đã được xây dựng đúng trọng tâm, trúng mục tiêu, qua đó hỗ trợ thiết thực cho cộng đồng doanh nghiệp vượt qua những giai đoạn khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh như Covid-19.
Đối với việc thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục quán triệt đầy đủ tinh thần của Cương lĩnh phát triển đất nước (năm 2011) và các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, XIII, trong đó đã xác định rõ mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Ba trụ cột quan trọng của nền kinh tế nước ta hiện nay gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và kinh tế tư nhân.
Thực tiễn cho thấy, định hướng phát triển này là hoàn toàn đúng đắn.
Khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 50% GDP, tạo việc làm cho khoảng 80% lực lượng lao động xã hội. Trong khi đó, khu vực FDI đóng góp tới 73% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đóng góp khoảng ¼ ngân sách, khoảng 30% GDP.
Cần nhận thức rõ rằng, mỗi khu vực doanh nghiệp đều có vai trò và sứ mệnh riêng, đồng thời cũng tồn tại những điểm mạnh và điểm yếu nhất định. Ví dụ, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò chủ lực trong tạo việc làm, nhưng mặt hạn chế là khả năng đảm bảo an sinh xã hội còn yếu, nhất là ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tình trạng trốn và lậu thuế vẫn còn diễn ra.
Khu vực FDI có thế mạnh về năng lực sản xuất, đóng góp lớn cho xuất khẩu, nhưng nhược điểm là mức độ liên kết với doanh nghiệp trong nước còn hạn chế, khả năng lan tỏa công nghệ và giá trị gia tăng cho nền kinh tế chưa đạt như kỳ vọng. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước thời gian qua gặp khó khăn do khuôn khổ pháp lý chưa tạo điều kiện cho quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Vậy, trong bối cảnh đó, chính sách tài chính cần làm gì? Theo tôi, cần tập trung vào việc giải quyết những vấn đề then chốt, tháo gỡ các điểm nghẽn trong từng khu vực doanh nghiệp, thay vì áp dụng một chính sách chung cho tất cả.
Cụ thể, có 2 vấn đề lớn mà ngành Tài chính cần đặc biệt quan tâm:
Thứ nhất, đối với khu vực doanh nghiệp tư nhân – chiếm tới 97% là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ – chính sách cần hướng đến mục tiêu hỗ trợ các doanh nghiệp này phát triển. Nghị quyết số 68/NQ-TW của Bộ Chính trị đã đặt ra yêu cầu phải tạo điều kiện để khu vực kinh tế tư nhân lớn mạnh, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế.
Thứ hai, đối với khu vực DNNN, cần xác định rõ vai trò là người đi trước mở đường, đóng vai trò tiên phong trong các lĩnh vực mới, đặc biệt là những ngành công nghệ cao, có khả năng dẫn dắt đầu tư tư nhân. Ở đây, nguyên tắc “đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư” cần được cụ thể hóa bằng các chính sách tài chính rõ ràng và hiệu quả.

Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là xây dựng được mô hình phát triển đến năm 2030, khi Việt Nam phấn đấu trở thành quốc gia công nghiệp có thu nhập trung bình cao. Mô hình này phải trả lời được các câu hỏi: Tỷ trọng kinh tế XHCN trong nền kinh tế là bao nhiêu? Các yếu tố của kinh tế thị trường thể hiện cụ thể ở những lĩnh vực nào? Chỉ khi xác định rõ ràng và có thể định lượng được, chúng ta mới có thể xây dựng và ban hành các chính sách phù hợp, có căn cứ thực tiễn.
Chẳng hạn, nếu đặt mục tiêu DNNN đóng góp 30–32% ngân sách nhà nước, thì cần xác định rõ đóng góp đó phải đến từ các lĩnh vực có tính chiến lược, công nghệ cao, những lĩnh vực mới, tạo nền tảng cho nền kinh tế.
Theo đó, Chính phủ cũng cần thay đổi tư duy quản lý đối với nền kinh tế thị trường. Nhà nước không nên làm thay doanh nghiệp, mà cần tạo môi trường để các DNNN được tự chủ trong quyết định đầu tư, tự quyết định việc tham gia hay không tham gia vào chuỗi giá trị. Một khi đã tham gia, doanh nghiệp phải sẵn sàng chịu rủi ro theo nguyên tắc thị trường.
Tuy nhiên, vì chúng ta định hướng phát triển nền kinh tế thị trường theo hướng XHCN, nên trong trường hợp doanh nghiệp nhà nước thực hiện các nhiệm vụ mang tính chiến lược quốc gia theo định hướng của Nhà nước, thì Chính phủ cần có cơ chế hỗ trợ đầu ra, đảm bảo tính ổn định và hiệu quả. Đây chính là một mô hình quản trị phù hợp với đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Việt Nam đang xây dựng.
Đối với doanh nghiệp FDI, chính sách tài chính trong thời gian tới không nên chỉ tập trung vào các chỉ số như kim ngạch xuất khẩu, mà cần hướng đến nâng cao giá trị gia tăng trong chuỗi sản xuất, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và liên kết với doanh nghiệp nội địa. Đây là cách tiếp cận chủ động để giảm thiểu những rủi ro từ các chính sách thuế đối ứng của các quốc gia khác và nâng cao năng lực tự cường của nền kinh tế Việt Nam.


Phóng viên: Theo ông, chính sách tài chính, đặc biệt là chính sách chi tiêu công cần được điều chỉnh như thế nào để tăng cường tính linh hoạt, thích ứng với những biến động, thách thức?
TS Nguyễn Đức Kiên: Trong bối cảnh Việt Nam đang đặt mục tiêu hướng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế hai con số, tôi cho rằng điều đầu tiên cần làm là phải có cái nhìn thực tế và linh hoạt hơn đối với bội chi ngân sách.
Hiện nay, quy mô GDP của nền kinh tế Việt Nam ước tính vào khoảng 476 tỷ USD. Trong khi đó, nợ công đã giảm mạnh, từ mức khoảng 63% GDP trong giai đoạn trước đây xuống chỉ còn khoảng 38% hiện nay. Với thực lực của nền kinh tế, cùng với nguồn lực trong dân còn rất lớn và dư địa tài khóa còn rộng, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để cân nhắc nâng bội chi ngân sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng, nếu có chiến lược điều hành và quản lý phù hợp.
Vấn đề cốt lõi hiện nay là sử dụng bội chi như thế nào cho hiệu quả. Chúng ta hoàn toàn có thể nghiên cứu, tính toán, và chủ động cân đối các phương án tài khóa – trong đó có thể xem xét nâng trần nợ công – miễn là mục tiêu cuối cùng là đầu tư vào các lĩnh vực thiết yếu, các dự án trọng điểm, có khả năng lan tỏa lớn cho nền kinh tế.

Tôi cho rằng, cần nhìn nhận rằng bội chi ngân sách không phải lúc nào cũng gây hại. Trong điều kiện được quản lý tốt, bội chi không chỉ không gây mất ổn định kinh tế vĩ mô mà còn tạo ra đòn bẩy tài chính để thúc đẩy tăng trưởng.
Trước đây, vào giai đoạn 2010–2012, trần nợ công 65% GDP được đưa ra dựa trên khả năng trả nợ thực tế khi ấy. Khi đó, hiệu suất của nền kinh tế còn thấp, dự trữ ngoại hối nhà nước chỉ đủ đảm bảo khoảng 12 tuần nhập khẩu, xuất khẩu còn hạn chế. Tuy nhiên, bối cảnh hiện tại đã có nhiều thay đổi tích cực.
Nếu nhìn ra thế giới, chúng ta có thể tham khảo các mô hình như Mỹ, Nhật Bản hay Đức. Trong đó, nợ công của Mỹ và Nhật đều vượt ngưỡng 100% GDP, trong khi Đức duy trì mức thấp hơn nhiều.

Khủng hoảng nợ công châu Âu năm 2012 cũng cho thấy có những quốc gia nợ công trên 100% GDP không bị vỡ nợ, ngược lại – có những quốc gia như Tây Ban Nha vỡ nợ ngay cả khi tỷ lệ nợ công chưa đến 65% GDP.
Điều này cho thấy, con số nợ công bao nhiêu tùy theo khả năng trả nợ của nền kinh tế. Trần nợ công phụ thuộc vào sức khỏe của từng nền kinh tế ở từng thời điểm khác nhau, không có con số tuyệt đối kéo dài trong suốt cả quá trình phát triển của đất nước. Vì vậy, trần nợ công cần được điều chỉnh linh hoạt theo từng giai đoạn phát triển.
Trần nợ công quốc gia đang ở mức 65% GDP. Nếu tăng trưởng kinh tế năm nay đạt khoảng 8%, thì theo tính toán, đến năm 2030, quy mô GDP của Việt Nam có thể đạt khoảng 850 tỷ USD. Với mức trần 65%, dư địa nợ công khi đó sẽ vào khoảng 540 tỷ USD, tạo ra một không gian tài khóa rất lớn.

Phóng viên: Vậy, theo ông, trong bối cảnh hiện nay, chính sách tài chính cần tập trung vào động lực nào để giúp phục hồi kinh tế toàn diện và đạt mục tiêu tăng trưởng mạnh mẽ?
TS Nguyễn Đức Kiên: Tôi cho rằng, mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ở mức hai con số là hoàn toàn khả thi nếu có chiến lược đúng và triển khai quyết liệt.
Để đạt được mục tiêu này, theo tôi, biện pháp đầu tiên là khu vực DNNN phải thực hiện vai trò đi trước mở đường, dẫn dắt trong những lĩnh vực then chốt, từ đó mở ra không gian cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác cùng tham gia, phát triển.
Để tăng trưởng kinh tế hai con số, một trong những động lực tăng trưởng chiến lược chính là việc triển khai dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam.
Hiện nay, có hai phương án đầu tư lớn đang được doanh nghiệp trong nước đề xuất. Theo phương án của Tập đoàn Vingroup, mô hình là đầu tư công – quản trị tư; còn phương án của Tập đoàn Thaco là theo hình thức đối tác công – tư (PPP).
Dù theo phương án nào, việc triển khai dự án cũng sẽ làm gia tăng nợ công quốc gia. Tuy nhiên, tôi cho rằng mức độ tăng nợ công này hoàn toàn có thể kiểm soát được, nếu có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt tài chính, kỹ thuật và cơ chế phối hợp giữa các bên.

Tôi đánh giá cao vai trò của Bộ Tài chính trong việc tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ huy động khoảng 70 tỷ USD vốn đầu tư công để thực hiện dự án này. Đây là bước đột phá thể hiện sự đổi mới trong tư duy hành động của Bộ Tài chính.
Quay trở lại với vai trò của các doanh nghiệp trong dự án, theo tôi, DNNN cần chọn những phần việc mũi nhọn, kỹ thuật cao để thực hiện trước, làm cơ sở triển khai toàn diện.
Trong khi đó, khu vực tư nhân có thể tham gia theo lộ trình phù hợp, từ những khâu kỹ thuật cơ bản như xây dựng hạ tầng nền, đặt tuyến, rải đá, thi công ray… Đây là cách làm vừa đảm bảo tiến độ, chất lượng, vừa phát huy được sức mạnh tổng hợp của các khu vực kinh tế.
Cần nhấn mạnh rằng, đây là dự án đầu tư công do doanh nghiệp Việt Nam thực hiện, với mục tiêu tiếp cận và mua công nghệ nước ngoài, nhưng doanh nghiệp Việt làm chủ từ khâu tổ chức đến thi công.
Về phương án cụ thể, cá nhân tôi đề xuất chia tuyến cao tốc Bắc – Nam thành hai đoạn. Tuyến Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng nên giao cho Tổng công ty Đường sắt Việt Nam hoặc Bộ Xây dựng làm chủ đầu tư, bởi đây là tuyến kết nối vùng trọng điểm, phù hợp triển khai theo hình thức đầu tư công truyền thống.
Trong khi đó, tuyến Hà Nội – TP. Hồ Chí Minh nên thực hiện theo phương án PPP, vừa đảm bảo tính khả thi tài chính, vừa mở rộng không gian huy động vốn từ khu vực tư nhân và quốc tế.
Phương án chia tuyến này đảm bảo sự hài hòa lợi ích giữa DNNN và doanh nghiệp tư nhân, đảm bảo huy động nguồn lực đầu tư trong nước trong vòng 5 năm tới. Đây chính là động lực quan trọng giúp Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số trong giai đoạn phát triển mới.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!

15:25 28/08/2025