Phát triển lực lượng sản xuất mới: Động lực chiến lược đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên số
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi sâu sắc mô hình sản xuất toàn cầu, lực lượng sản xuất mới với các yếu tố như AI, dữ liệu lớn, công nghệ sinh học… đang trở thành nền tảng cho phát triển nhanh, bền vững. Với Việt Nam, đây là động lực then chốt để thúc đẩy chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2045.
Chiều ngày 20/6, Học viện Tài chính phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Chiến lược và Chính sách Kinh tế - Tài chính (Bộ Tài chính) tổ chức Hội thảo Quốc gia với chủ đề “Lực lượng sản xuất mới – Xu hướng thế giới và thực tiễn Việt Nam”.
Tham dự Hội thảo có Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Thành Trung; cùng lãnh đạo các đơn vị đồng tổ chức, đại diện các cơ quan quản lý, viện nghiên cứu, trường đại học và đông đảo các chuyên gia, nhà khoa học uy tín trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ và chính sách công.
Định hình hệ sinh thái phát triển mới
Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Thành Trung nhấn mạnh, sự kiện diễn ra trong bối cảnh đặc biệt, khi thế giới đang chứng kiến sự chuyển mình sâu sắc, toàn diện và chưa từng có tiền lệ của lực lượng sản xuất, dưới tác động mạnh mẽ của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Các công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo, vật liệu mới... đang tái cấu trúc mô hình tổ chức sản xuất, làm mờ ranh giới giữa vật chất và phi vật chất, giữa con người và máy móc, tạo nên một hệ sinh thái kinh tế mới năng động, sáng tạo và đầy biến động.
Theo Thứ trưởng, lực lượng sản xuất mới không chỉ là biểu hiện của tiến bộ công nghệ, mà còn là nền tảng cho một nền kinh tế phát triển bền vững, sáng tạo và nhân văn trong kỷ nguyên số. Đối với Việt Nam, trên hành trình hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2045, Đảng đã xác định rõ: Khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là ba trụ cột chiến lược.
Trích lời Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 8, khóa XIII, Thứ trưởng nhấn mạnh: “Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại là một trong những trụ cột quan trọng nhất để Việt Nam bứt phá.” Tuy nhiên, để phát triển lực lượng sản xuất trong bối cảnh mới, Việt Nam cần nhận diện đúng bản chất, xác định động lực tăng trưởng, và xây dựng hệ sinh thái phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược.

Thứ trưởng Đỗ Thành Trung cũng đề nghị các chuyên gia, nhà khoa học tập trung làm rõ khái niệm, đặc trưng và động lực của lực lượng sản xuất mới; phân biệt nội dung kế thừa từ học thuyết Mác – Lênin với các yếu tố hiện đại phù hợp thời đại.
Bên cạnh đó, cần phân tích xu hướng và kinh nghiệm quốc tế về phát triển nhân lực, thể chế, công nghệ; đánh giá toàn diện thực trạng trong nước và đề xuất giải pháp khả thi nhằm kiến tạo hệ sinh thái lực lượng sản xuất hiện đại, thúc đẩy cải cách thể chế, đổi mới quản lý và tăng cường liên kết kinh tế.
Theo PGS.TS. Nguyễn Đào Tùng - Giám đốc Học viện Tài chính, Hội thảo hôm nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đây không chỉ là diễn đàn trao đổi học thuật, mà còn là nơi kết nối tri thức đa ngành, nhằm nhận diện rõ hơn về những chuyển biến trong lực lượng sản xuất toàn cầu dưới tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, từ đó đưa ra các hàm ý chính sách phù hợp cho Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới.

Những vấn đề được đặt ra tại Hội thảo sẽ không chỉ dừng lại ở phạm vi học thuật, mà còn có thể trở thành gợi mở cho hoạch định chiến lược, xây dựng thể chế và triển khai các chương trình hành động cụ thể trong thời gian tới cả cấp vĩ mô và vi mô, cả về kinh tế và xã hội, cũng như các khía cạnh khác liên quan trong đời sống quốc gia và quốc tế.
Hội thảo “Lực lượng sản xuất mới – Xu hướng thế giới và thực tiễn Việt Nam” cho đến nay đã nhận được sự quan tâm phối hợp và chỉ đạo sát sao của các đơn vị đồng tổ chức và sự hưởng ứng nhiệt tình, rộng rãi của các cấp lãnh đạo, cơ quan và cộng đồng các nhà khoa học, chuyên gia, quản lý, nghiên cứu, giảng viên, doanh nghiệp trên phạm vi cả nước; quy tụ được khoảng 200 tham luận chất lượng, có hàm lượng học thuật cao, tiếp cận từ nhiều góc độ: triết học, kinh tế, chính trị, tài chính, khoa học công nghệ, giáo dục, chính sách công, quản lý phát triển…
Nhận diện thách thức và động lực vươn mình của Dân tộc
Tại Hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận, làm rõ các nội dung xoay quanh về lực lượng sản xuất mới. Theo đó, nhiều ý kiến đánh giá Việt Nam đã bước đầu đạt được những kết quả tích cực trong phát triển kinh tế số, Chính phủ số, doanh nghiệp số và xã hội số. Những thành tựu đó mở ra nhiều cơ hội và động lực mới, tạo nền tảng để Việt Nam đẩy nhanh quá trình phát triển bền vững, rút ngắn khoảng cách với các quốc gia phát triển, hiện thực hóa khát vọng về một đất nước phồn vinh, hạnh phúc vào giữa thế kỷ XXI.

Tuy nhiên, đan xen với đó vẫn còn nhiều thách thức lớn như: Khoảng cách công nghệ và hạ tầng số; chất lượng nguồn nhân lực; rào cản thể chế; khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; thu hút FDI; bảo đảm an sinh xã hội và năng lực xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Vì vậy, cần nhận diện rõ những chuyển biến mới trong quan hệ giữa người lao động, công cụ và tư liệu sản xuất, cũng như tương quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong bối cảnh hiện nay.
Theo PGS.TS. Phạm Thị Túy - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trong Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, lực lượng sản xuất mới đã và đang định hướng, quyết định mức độ, tốc độ, cấp độ phát triển của một quốc gia. Vì vậy, để không đứng ngoài cuộc, Việt Nam cần tận dụng một cách tối ưu thành quả của cuộc cách mạng này.
Để hiện thực hóa mục tiêu vươn mình của Dân tộc, PGS.TS. Phạm Thị Túy cho rằng, Việt Nam phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ, nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất - lực lượng sản xuất mới.

Trong khi đó, PGS.TS. Vũ Văn Phúc - Nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản nhận định, quá trình phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại trong kỷ nguyên số đang làm thay đổi sâu sắc phương thức sản xuất, đặc biệt là sở hữu tư liệu sản xuất và tổ chức lao động. Các tài sản vô hình như tri thức, công nghệ, dữ liệu… trở thành yếu tố then chốt, đòi hỏi quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ sở hữu, phải điều chỉnh tương ứng để phát huy hiệu quả năng suất xã hội.
Đối với Việt Nam, đây là cơ hội lớn để bứt phá và định hình mô hình phát triển mới dựa trên nền tảng số và đổi mới sáng tạo. Muốn vậy, cần hoàn thiện thể chế sở hữu, đổi mới quản trị quốc gia, hiện đại hóa hạ tầng số và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. “Chỉ khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì mới tạo nền tảng vững chắc cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, PGS.TS Vũ Văn Phúc khẳng định.
Con người là nguồn lực quý giá nhất để thúc đẩy sự phát triển
Nêu quan điểm tại Hội thảo, GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn - Phó Chủ tịch Hội Triết học Việt Nam, Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu Triết học khẳng định, từ xưa đến nay, trong mọi thời kỳ lịch sử, lực lượng sản xuất luôn là nền tảng vật chất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của con người và xã hội. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất cũng là thước đo cơ bản để đánh giá mức độ tiến bộ của một xã hội trong mỗi giai đoạn, kể cả trong thời đại của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay.

Chính vì vậy, để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới - nơi dân tộc Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, sánh vai với các cường quốc - thì việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu. Trong đó, chuyển đổi số, khoa học và công nghệ cần được xem là động lực quan trọng nhất. Tuy nhiên, yếu tố then chốt trong lực lượng sản xuất hiện đại không phải máy móc hay công nghệ, mà chính là con người với trí tuệ, khả năng sáng tạo và năng lực tiếp thu tri thức ngày càng cao. Đó mới là nguồn lực quý giá nhất để thúc đẩy sự phát triển.
“Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng rằng, với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và sức mạnh con người Việt Nam, lực lượng sản xuất mới sẽ trở thành bệ phóng đưa đất nước vươn xa, làm cho dân tộc ta tiến bước vững chắc trong kỷ nguyên mới, sánh vai cùng các quốc gia phát triển trên thế giới”, GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn nêu rõ.
Đồng quan điểm về khía cạnh cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Ths. Phạm Mạnh Thùy - Viện Chiến lược và Chính sách Kinh tế - Tài chính cho biết, có một thực tế tại Việt Nam là chất lượng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao chưa đồng đều và chưa đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Theo khảo sát của Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA), năm 2023 chỉ có khoảng 30% sinh viên mới ra trường đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp mà không cần đào tạo thêm.

Đặc biệt, Việt Nam đang thiếu hụt trầm trọng nguồn nhân lực có kinh nghiệm, trình độ chuyên môn sâu, có vai trò dẫn dắt trong các ngành, lĩnh vực công nghệ mũi nhọn như AI, Big Data, an ninh mạng và đặc biệt là trong ngành công nghiệp bán dẫn. Chính sách thu hút, trọng dụng và giữ chân nhân tài, nguồn nhân lực công nghệ cao của nước ta chưa có đột phá. Trong khi đó môi trường làm việc, cơ hội phát triển và chế độ đãi ngộ đối với nhóm này ở Việt Nam lại kém hấp dẫn so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám”.
Để khắc phục, Ths. Phạm Mạnh Thùy đề xuất cần đảm bảo chi tối thiểu 20% ngân sách cho giáo dục, đào tạo và 3 – 5% cho khoa học – công nghệ. Đồng thời, ban hành chính sách ưu đãi về quốc tịch, thuế, nhà ở, phúc lợi; thành lập quỹ hỗ trợ nghiên cứu dành cho các nhà khoa học, kỹ sư trẻ tài năng trong lĩnh vực công nghệ cao; huy động sự tham gia của doanh nghiệp trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao…