Tình hình kinh tế Việt Nam tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2013
Kinh tế thế giới
Tình hình kinh tế toàn cầu đan xen gam mầu sáng tối. Nhật Bản tiếp tục duy trì các chương trình kích thích kinh tế và nới lỏng chính sách tiền tệ - tài khóa nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng và lạm phát đề ra. Qua đó cuộc chiến chống giảm phát sau 20 năm bước đầu đã có kết quả khi chỉ số CPI tháng 6 (loại bỏ giá lương thực) đã tăng 0,8%, mức tăng cao nhất từ trong vòng 14 tháng qua.
Kinh tế Mỹ vẫn trên đà phục hồi nhưng chưa thực sự bền vững. Fed tuyên bố gói nới lỏng định lượng (QE) sẽ được duy trì cho tới khi phục hồi kinh tế đạt mục tiêu (tỷ lệ thất nghiệp khoảng 7%, lạm phát 2%). Các chuyên gia kinh tế dự báo kinh tế Mỹ tiếp tục phục hồi và sẽ tăng trưởng trên 2% năm 2014.
Tại Trung Quốc, sự chuyển hướng từ mô hình tăng trưởng nhanh sang tăng trưởng bền vững đang khiến kinh tế nước này gặp khá nhiều vấn đề trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng. Nhiều dự báo của các tổ chức quốc tế cho thấy tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc năm 2013 sẽ chậm hơn so với dự báo của Chính phủ nước này. Theo đó, một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là do nợ công của chính quyền địa phương tăng cao khiến Chính phủ Trung Quốc buộc phải thắt chặt chi tiêu và đầu tư công, gây ra sự thiếu hụt vốn đầu tư cho nền kinh tế Trung Quốc.
Về tình hình của hệ thống ngân hàng Trung Quốc trong tháng 7, động thái tạm ngừng bơm tiền hỗ trợ hệ thống của NHTW Trung Quốc trong tuần đầu của tháng 7 nhằm siết lại kỷ luật, rà soát các sản phẩm tài chính phái sinh cũng như các tiêu chuẩn cho vay tín dụng của hệ thống ngân hàng cũng đã gây ra những biến động nhất định cho hệ thống ngân hàng nước này. Về mục tiêu, chính phủ Trung Quốc tuyên bố không để tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm dưới 7%; giữ ổn định tỷ giá; cơ cấu lại doanh nghiệp để khắc phục tình trạng dư thừa công suất hiện nay; tăng cường kiểm soát hoạt động cho vay của ngân hàng và nợ của chính quyền địa phương.
Trong một sự kiện khác, tại hội nghị G20 (Moscow ngày 19-20/7), các Bộ trưởng G20 về cơ bản đã cùng thống nhất trong giai đoạn tới, việc điều hành chính sách sẽ ưu tiên kích thích kinh tế nhằm đảm bảo tiến trình phục hồi kinh tế, tập trung vào mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao chất lượng đầu tư, đặc biệt ưu tiên doanh nghiệp vừa và nhỏ và thực thi chính sách tiền tệ thận trọng.
Các Bộ trưởng G20 khuyến cáo việc dừng gói QE của FED sẽ ảnh hưởng đáng kể đối với chính sách tài chính của nhiều nước và có thể gây ra sự rút vốn khỏi các quốc gia mới nổi của các quỹ đầu tư. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, định hướng của hội nghị này sẽ tạo hiệu ứng tốt cho việc thực thi chính sách ổn định và phát triển kinh tế toàn cầu 2013.
Kinh tế Việt Nam
Môi trường kinh tế vĩ mô về cơ bản tiếp tục được duy trì ổn định
Lạm phát tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp: CPI tháng 7 tăng hơn so với tháng trước (tăng 0,27% so với tháng 6) và tăng 7,29% so với tháng 7/2012, bình quân 7 tháng tăng 6,81% so với cùng kỳ. Mặc dù lạm phát tổng thể có tốc độ tăng cao hơn so với tháng trước cũng như so với cùng kỳ (do CPI tháng 7/2012 giảm so với tháng 6/2012) nhưng nhìn chung lạm phát 7 tháng đầu năm vẫn ở mức thấp (tăng 2,68% so với đầu năm) và là mức thấp trong nhiều năm trở lại đây.
Trên thị trường quốc tế, nhờ vào những thành quả về ổn định vĩ mô đạt được trong thời gian qua, niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam tiếp tục được cải thiện. Biểu hiện là mức độ rủi ro tín dụng quốc gia được đo lường bởi hệ số CDS đã giảm mạnh từ mức trên 300 điểm của cùng kỳ năm ngoái xuống quanh mức 220 điểm ngày 23/7.
![]() |
Phân tích chỉ số CPI tháng 7 cho thấy tác động của chính sách tiền tệ cũng như cầu tiêu dùng trong nước đến CPI trong tháng này là không đáng kể. Lạm phát tổng thể tăng chủ yếu do việc điều chỉnh giá (giá xăng dầu, tỷ giá) gây tác động đến nhóm giao thông vận tải tăng mạnh (tăng 1.34% so với tháng trước) và giá hàng nhập khẩu. Như vậy, tốc độ tăng CPI của tháng 7 so với tháng 6 (0,27%) vẫn thấp hơn dư địa cho phép trong mỗi tháng cuối năm (bình quân khoảng 0,76%). Với xu hướng tăng CPI như vậy, kết hợp với yếu tố giá cả hàng hóa thế giới được dự báo không có nhiều biến động từ nay đến cuối năm và sức mua trong nước vẫn còn yếu, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (UBGSTCQG) cho rằng việc kiểm soát lạm phát theo kế hoạch đề ra cho năm 2013 đang có những thuận lợi nhất định.
![]() |
Thị trường tài chính tiền tệ tiếp tục được cải thiện, mức độ rủi ro giảm bớt tạo yếu tố ổn định hơn cho kinh tế vĩ mô. Lãi suất ngân hàng giảm nhiều so với cuối năm 2012; cùng với đó, thanh khoản của hệ thống được cải thiện tốt hơn nhiều so với giai đoạn trước (hệ số LRD - cho vay/tiền gửi tiếp tục giảm); tỷ giá tuy có biến động trong một thời gian ngắn sau khi NHNN điều chỉnh tỷ giá chính thức nhưng chủ yếu là do yếu tố tâm lý.
Tăng trưởng kinh tế có một số dấu hiệu chuyển biến nhưng vẫn ở mức thấp và đối mặt nhiều khó khăn để có thể đạt mục tiêu cả năm là 5.5%
Sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tích cực, chỉ số IIP 7 tháng đầu năm tăng 5,2%, cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái (4,8%). Đặc biệt, khu vực công nghiệp chế biến chế tạo có mức tăng trưởng khá, đạt mức 5,8% so với 4,3% cùng kỳ. Cùng với đó, chỉ số hàng tồn kho so với cùng kì năm trước đã giảm đáng kể xuống mức 8,8% (tại thời điểm 1/7/2013) so với mức 21,5% tại thời điểm đầu năm 2013.
Bên cạnh đó, tình hình phát triển doanh nghiệp đã bước đầu có những cải thiện. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đã bắt đầu tăng so với cùng kỳ những tháng gần đây, số lượng doanh nghiệp tạm dừng hoạt động quay trở lại hoạt động cũng tăng dần qua từng tháng.
Dù vậy, mục tiêu tăng trưởng cả năm 5.5% vẫn là thách thức lớn đối với nền kinh tế. Với kết quả GDP 6 tháng đầu năm tăng ở mức 4,9%, tương đương với cùng kỳ năm 2012 (4,93%), tăng trưởng GDP của Việt Nam đang ở mức thấp so với nhiều năm trở lại đây khiến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng cả năm ở mức 5,5% sẽ gặp nhiều khó khăn.
Xét về tổng cầu, trong bối cảnh tiêu dùng nội địa suy giảm, xuất khẩu đang là động lực quan trọng cho tăng trưởng với kim nghạch xuất khẩu tăng khá và tốt hơn so với một số nước trong khu vực, chủ yếu nhờ sự đóng góp của khu vực doanh nghiệp có vốn FDI. Có thể thấy sự suy yếu của cầu nội địa đang tạo lực cản đáng kể cho tăng trưởng. Sản xuất của nền kinh tế vì vậy tiếp tục phải chịu sự chi phối lớn từ cầu tiêu dùng bên ngoài. Phân tích chỉ số PMI-HSBC tháng 6/2013 cũng cho thấy khá rõ về nhận định này. Cụ thể, khi lượng đơn đặt hàng xuất khẩu trong tháng 6 sụt giảm, chỉ số PMI đã có tháng thứ 2 liên tiếp giảm dưới ngưỡng 50 điểm và ở mức thấp hơn tháng 5. Điều này cho thấy nền kinh tế sẽ khó có thể thực sự hồi phục ổn định khi cầu trong nước không được cải thiện.
Theo đánh giá của UBGSTCQG, nguyên nhân chính khiến tổng cầu suy yếu là do tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt thấp. Theo đó, tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 6 tháng đầu năm 2013 chỉ đạt 29,6% GDP, thấp hơn khá nhiều so với cùng kỳ năm 2012 (34,5% GDP). Theo UBGSTCQG, cần tập trung chỉ đạo điều hành để đảm bảo mục tiêu tổng vốn đầu tư xã hội tăng khoảng 12-14% so với 2012.
![]() |
Kiến nghị
Công tác điều hành chính sách trong giai đoạn tới cần tiếp tục kiên định với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô nhằm củng cố niềm tin của thị trường và các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, trong những tháng cuối năm, cần ưu tiên hỗ trợ sản xuất và tăng trưởng một cách hợp lý, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong nước thông qua việc đẩy nhanh các gói chính sách hỗ trợ một cách kịp thời, đồng bộ và đủ liều lượng.
Cụ thể: Quyết liệt đẩy mạnh tiến độ thực hiện Nghị quyết 02 của Chính phủ; Kịp thời điều chỉnh liều lượng các giải pháp hỗ trợ nhằm giúp chính sách nhanh chóng thẩm thấu vào nền kinh tế, đảm bảo “điểm rơi chính sách” chính xác, tránh chậm trễ trong việc điều chỉnh tạo nên tình trạng thiếu vốn đầu tư khiến mục tiêu tăng trưởng năm nay khó thực hiện nhưng lại tạo hệ lụy gia tăng lạm phát trong các năm sau.
Xét trên nền tảng kinh tế vĩ mô, lạm phát được kiểm soát tốt và còn dư địa nhất định cho việc tiếp tục điều chỉnh giá (giá điện, than, dịch vụ công) theo nguyên tắc thị trường và áp dụng tỷ giá linh hoạt. Tuy nhiên, khung thời gian từ nay cho đến cuối năm không còn nhiều nên cần phải có lộ trình điều chỉnh cụ thể, liều lượng thích hợp và thời điểm cũng cần phải tính toán hợp lý để tránh dồn dập, gây ảnh hưởng tâm lý cho thị trường.