Tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản và sản xuất công nghiệp tháng 1/2013

Theo Tổng Cục Thống kê

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp tháng Một tập trung chủ yếu vào gieo cấy, chăm sóc lúa đông xuân và gieo trồng cây vụ đông trên cả nước. Tính đến ngày 15/01/2013, cả nước đã gieo cấy được 1943 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 104,6% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Các địa phương phía Bắc gieo cấy 59 nghìn ha, bằng 65,6%; các địa phương phía Nam gieo cấy 1884 nghìn ha, bằng 106,6%, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo cấy 1583,1 nghìn ha, bằng 109,5%.   

Tại các địa phương phía Bắc, tiến độ gieo cấy lúa đông xuân năm nay chậm hơn so với năm trước do ảnh hưởng của các đợt không khí lạnh, rét đậm kéo dài. Tại các địa phương phía Nam, tiến độ gieo cấy lúa đông xuân nhanh hơn năm trước, chủ yếu do nước lũ xuống ở mức thấp và rút nhanh. Hiện nay, phần lớn các trà lúa xuân sớm đang trong giai đoạn đẻ nhánh và làm đòng. Các địa phương đang tích cực phun thuốc phòng trừ sâu bệnh có thể phát sinh trong điều kiện thời tiết lạnh để bảo đảm lúa sinh trưởng và phát triển tốt.

Cùng với việc gieo cấy lúa đông xuân, tính đến trung tuần tháng Một, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 176,6 nghìn ha ngô, bằng 83,3% cùng kỳ năm trước; 58 nghìn ha khoai lang, bằng 107,7%; 45,5 nghìn ha đậu tương, bằng 49,4%; 289 nghìn ha rau, đậu, bằng 111,6%.

Chăn nuôi tại các địa phương phía Bắc chịu ảnh hưởng của đợt rét kéo dài nên có hiện tượng trâu, bò già và bê, nghé ở một số địa phương bị chết, nhất là các tỉnh khu vực miền núi. Tính đến thời điểm này có khoảng 520 con trâu, bò bị chết. Một số địa phương có số trâu, bò chết nhiều là: Bắc Kạn 150 con, Cao Bằng 100 con. Ước tính số lượng trâu, bò cả  nước giảm 4% so với cùng kỳ năm 2012. Chăn nuôi lợn và gia cầm dần đi vào ổn định, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thực phẩm của dân cư trong dịp Tết Nguyên đán do không có dịch bệnh lớn bùng phát. Tính đến ngày 21/01/2013, trên địa bàn cả nước không còn các loại dịch bệnh trên gia súc, gia cầm chưa qua 21 ngày.

Lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào trồng rừng, chăm sóc, khoanh nuôi tái sinh rừng và bảo vệ rừng; đồng thời triển khai công tác chuẩn bị cho Tết trồng cây Xuân Quý Tỵ và trồng rừng tập trung năm 2013. Trong tháng Một, số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 561,2 nghìn cây, tăng 0,3% so với cùng kỳ năm 2012; gỗ tròn khai thác 365 nghìn m3, tăng 8,6%; củi khai thác 2,54 triệu ste, tăng 3,3%.

Thời tiết đang mùa khô hạn là nguyên nhân cảnh báo xảy ra cháy rừng. Theo kết quả khảo sát, các tỉnh vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là khu vực trọng điểm có khu vực nguy cơ cháy rừng cấp IV, cấp nguy hiểm và cấp V, cấp cực kỳ nguy hiểm. Trong kỳ, tổng diện tích rừng bị thiệt hại là 20,8 ha, gấp 2,8 lần cùng kỳ năm 2012, trong đó diện tích rừng bị cháy là 9 ha; diện tích rừng bị chặt, phá 11,8 ha.

Thủy sản

Sản lượng thủy sản tháng Một ước tính đạt 376,1 nghìn tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 281,7 nghìn tấn, tăng 2,1%; tôm đạt 33,2 nghìn tấn, tăng 2,5%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Một ước tính đạt 170,6 nghìn tấn, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 125 nghìn tấn, giảm 3%; tôm đạt 23,5 nghìn tấn, tăng 2,2%.

Nuôi cá tra vẫn gặp khó khăn do giá cá tra nguyên liệu ở mức thấp trong khi giá cả các yếu tố đầu vào tăng nên sản lượng cá tra thu hoạch giảm 9% so với cùng kỳ năm trước. Tình hình nuôi tôm tại các địa phương tương đối ổn định, các hộ nuôi tôm sú thâm canh đang tiến hành nạo vét cải tạo ao nuôi chuẩn bị cho thả vụ mới.

Khai thác biển đang vào vụ cá Bắc, tiêu thụ hải sản khai thác khá thuận lợi. Sản lượng thủy sản khai thác tháng Một ước tính đạt 205,5 nghìn tấn, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó cá đạt 157 nghìn tấn, tăng 6,5%; tôm đạt 9,7 nghìn tấn, tăng 3,2%.

Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Một ước tính tăng cao ở mức 21,1% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do tháng 01/2012 là tháng Tết Nguyên đán, có số ngày nghỉ nhiều. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp khai khoáng tăng 4,7%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm vào mức tăng chung; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 26,3%, đóng góp 18,6 điểm phần trăm; ngành sản xuất, phân phối điện tăng 20,7%,  đóng góp 1,4 điểm phần trăm và ngành cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 10,3%, đóng góp 1 điểm phần trăm.

Một số ngành công nghiệp có mức sản xuất tháng Một tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất phụ tùng và bộ phận phụ trợ tăng 93,6%; sản xuất phân bón và hợp chất nitơ tăng 66,6%; sản xuất xi măng tăng 60,3%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 52,6%; sản xuất giày, dép tăng 52,5%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 49,1%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn, bao bì từ giấy và bìa tăng 40,1%; sản xuất đường tăng 40,1%; sản xuất sắt, thép, gang tăng 33,1%; sản xuất dây, cáp điện tăng 32,2%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 30,6%; sản xuất sợi tăng 30,1%; khai thác đá, cát, sỏi tăng 27,2%. Một số ngành công nghiệp có mức tăng khá là: Sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm tăng 23,6%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 22,8%; may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 20,9%; sản xuất thuốc lá tăng 20,7%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 20,7%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất bia tăng 14,3%; chế biến và bảo quản thuỷ sản tăng 13,4%; xử lý và cung cấp nước tăng 11,2%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 8,6%; khai thác và thu gom than cứng tăng 6,7%; sản xuất thiết bị điện tăng 2,2%; khai thác dầu thô giảm 0,7%; sản xuất linh kiện điện tử giảm 8,5%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng giảm 19,8%; đóng tàu và cấu kiện nổi giảm 30,2%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 01/2013 so với cùng kỳ năm 2012 của một số tỉnh, thành phố có quy mô công nghiệp lớn như sau: Thành phố Hồ Chí Minh tăng 18,2%; Đồng Nai tăng 30%; Bình Dương tăng 44,4%; Hà Nội tăng 28,4%; Hải Phòng tăng 27,6%; Bắc Ninh tăng 28,9%; Vĩnh Phúc tăng 35,1%; Cần Thơ tăng 32,5%; Hải Dương tăng 26,8%; Đà Nẵng tăng 52,2%.

Đáng lưu ý là tháng Một năm nay là tháng áp Tết Nguyên đán nhưng chỉ số sản xuất công nghiệp lại giảm 3,2% so với tháng trước và giảm ở tất cả các ngành công nghiệp cấp I, trong đó ngành khai khoáng giảm 4,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 3,0%; sản xuất và phân phối điện giảm 1,0%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải giảm 0,4%). Điều này cho thấy sản xuất công nghiệp vẫn còn gặp khó khăn, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm công nghiệp cho dịp Tết Nguyên đán năm nay thấp.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12/2012 so với cùng kỳ năm trước tăng 4% và so với tháng trước tăng 3,2%. Tính chung cả năm 2012, chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,7% so với năm 2011.

Các ngành có chỉ số tiêu thụ năm 2012 tăng cao so với năm 2011 là: Sản xuất đường tăng 108,8%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 30,7%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 28,4%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 24%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm tăng 23,1%; chế biến và bảo quản thủy sản tăng 21,7%; sản xuất cấu kiện kim loại tăng 11,2%; may trang phục tăng 9%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất giày, dép giảm 1,4%; sản xuất bia giảm 5,4%; sản xuất linh kiện điện tử giảm 9,3%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ giảm 15%; sản xuất xi măng giảm 16,9%; chế biến sữa và sản phẩm từ sữa giảm 18,7%; sản xuất xe có động cơ giảm 18,8%; sản xuất thiết bị điện giảm 19%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn, bao bì từ giấy và bìa giảm 20,3%; sản xuất dây, cáp điện giảm 31,9%.

Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/01/2013 tăng 21,5% so với cùng thời điểm năm trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng thời điểm năm trước là: Sản xuất thiết bị truyền thông tăng 374%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 62,6%; sản xuất xi măng tăng 35,7%; sản xuất dây, cáp điện tăng 34,1%; may trang phục tăng 23,3%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 20,7%; sản xuất bia tăng 19,5%; sản xuất thuốc lá tăng 19,1%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn, bao bì từ giấy và bìa tăng 19%; sản xuất đường tăng 18,2%; sản xuất sắt, thép, gang tăng 17%; chế biến và bảo quản thuỷ sản tăng 15,8%; sản xuất các cấu kiện kim loại tăng 13,7%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất xe có động cơ tăng 9,4%; sản xuất vật liệu xây dựng từ đất sét tăng 4,4%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 1,3%; sản xuất giày, dép giảm 5,6%; sản xuất thiết bị dẫn điện giảm 9%; sản xuất pin, ắc quy giảm 10,4%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa giảm 17%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng giảm 23,6%. Tỷ lệ giá trị hàng tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/01/2013 so với giá trị hàng được sản xuất trong năm 2012 là 6,9%.

Tình hình sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp như sau: Lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/01/2013 tăng 5,2% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,6%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 2,2% và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 12,4%. Tại thời điểm trên, lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp khai khoáng giảm 1,3% so với cùng thời điểm năm trước; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,9%; công nghiệp sản xuất, phân phối điện tăng 1,2% và công nghiệp cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 3,7%.

Chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp so với cùng thời điểm năm trước của các tỉnh, thành phố có quy mô công nghiệp lớn như sau: Thành phố Hồ Chí Minh tăng 19,4%; Đồng Nai tăng 3,9%; Bình Dương tăng 16,8%; Hà Nội tăng 0,8%; Hải Phòng tăng 1,8%; Bắc Ninh tăng 19%; Vĩnh Phúc tăng 1,8%; Cần Thơ tăng 3,8%; Hải Dương giảm 2,6%; Đà Nẵng tăng 5,9%.