Cải cách thể chế, hoàn thiện chính sách,thúc đẩy phát triển kinh tế số ở Việt Nam

ThS. Nguyễn Văn Tùng - Phó Trưởng ban, Ban Nghiên cứu tổng hợp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

Phát triển kinh tế số đang xu hướng tất yếu, diễn ra rộng khắp trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, phát triển kinh tế số là một trong những định hướng quan trọng nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước. Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế số, nhờ đó, kinh tế số có những bước phát triển ấn tượng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, một số tồn tại vẫn đang đặt ra, đòi hỏi cần có những hành động quyết liệt, những cải cách sâu rộng hơn để phát triển kinh tế số.

Quá trình và kết quả cải cách, hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế số tại Việt Nam

Thuật ngữ “kinh tế số” được ra đời từ những năm 1990 với nhiều quan niệm và cách tiếp cận khác nhau. Tuy chưa có một định nghĩa được đồng thuận hoàn toàn về kinh tế số, nhưng một cách tổng quát nhất thì nền kinh tế số được hiểu là nền kinh tế vận hành dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, kỹ thuật số. Sự ra đời và phát triển của kinh tế số tạo ra những mô hình kinh doanh mới, thúc đẩy thương mại phát triển bằng cách đẩy nhanh tốc độ và lưu lượng giao dịch thương mại. Đồng thời, trong nền kinh tế số, mọi lĩnh vực, mọi ngành kinh tế có thể kết nối với nhau, theo đó thông tin sẽ được phổ biến rộng rãi, được truyền dẫn, xử lý với tốc độ rất nhanh, làm giảm thời gian, giảm chi phí rủi ro do sai sót, chi phí tài chính và nhiều chi phí khác, giúp nâng cao năng suất lao động, do đó, bảo đảm tăng trưởng nhanh và bền vững. Không chỉ có vậy, kinh tế số có thể tạo ra những bước đột phá lớn, thúc đẩy xã hội phát triển đến một trình độ cao trên cơ sở công nghệ vật liệu phát triển, tạo ra được những vật liệu thông minh; trong đó, mỗi sản phẩm được sản xuất đều có thể được kết nối mạng và mã hóa để xác định tính đơn nhất. Điều này cho thấy, xu hướng phát triển mạnh mẽ của kinh tế số và không thể đảo ngược trong tương lai.

Hình 1: Tỷ trọng kinh tế số trong GDP tại Việt Nam giai đoạn 2020-2023 (%)Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp từ số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Hình 1: Tỷ trọng kinh tế số trong GDP tại Việt Nam giai đoạn 2020-2023 (%)
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp từ số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng ta đã xác định các chủ trương, quan điểm cũng như chuẩn bị điều kiện, giải pháp thực hiện phát triển kinh tế số từ khá sớm. Ngày 17/10/2000, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Chỉ thị số 58-CT/TW về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngày 01/7/2014, Bộ Chính trị khóa XI ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 52/NQ/TW ngày 27/9/ 2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tiếp đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm: “đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển nền kinh tế số, xã hội số”.

Gần đây, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030” đã xác định chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời xác định nội dung cốt lõi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2021-2030 là thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo; thực hiện chuyển đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả, bền vững.

Để tạo cơ sở pháp lý, thể chế hóa quan điểm của Đảng, thời gian qua, Việt Nam đã cải cách mạnh mẽ, tạo lập môi trường pháp lý hoàn thiện cho phát triển kinh tế số. Cụ thể: Quốc hội đã ban hành: Luật Giao dịch điện tử 2005; Luật Công nghệ thông tin 2006; Luật An toàn thông tin mạng 2015, Luật An ninh mạng 2018; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ 2022; Luật Giao dịch điện tử 2023… Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết, Quyết định, Chỉ thị quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế số. Một số chính sách quan trọng như:

- Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), trong đó hướng mục tiêu tăng cường nhận thức sâu rộng về CMCN 4.0 tới tất cả các bộ ngành, địa phương và các nhóm đối tượng, đồng thời đưa ra lộ trình hoàn thiện thể chế tạo thuận lợi cho chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0 và quá trình chuyển đổi số quốc gia.

- Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Trong đó xác định tầm nhìn đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp. Đồng thời, mục tiêu đến năm 2025, kinh tế số chiếm 20% GDP và tỷ trọng kinh tế số mỗi ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; mục tiêu đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP và tỷ trọng kinh tế số mỗi ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%.

- Quyết định số 645/QĐ-TTg ngày 15/5/2020 phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử (TMĐT) quốc gia giai đoạn 2021-2025 với mục tiêu tổng quát: (1) Hỗ trợ, thúc đẩy việc ứng dụng rộng rãi TMĐT trong doanh nghiệp và cộng đồng; (2) Thu hẹp khoảng cách giữa các thành phố và các địa phương về mức độ phát triển TMĐT; (3) Xây dựng thị trường TMĐT lành mạnh, có tính cạnh tranh và phát triển bền vững; (4) Mở rộng thị trường tiêu thụ cho hàng hóa Việt Nam trong và ngoài nước thông qua ứng dụng TMĐT, đẩy mạnh giao dịch, TMĐT xuyên biên giới; (5) Trở thành quốc gia có thị trường TMĐT thuộc nhóm 03 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á.

- Quyết định số 411/QĐ-TTg, ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Chiến lược xác định, bối cảnh hiện nay là thời cơ mà Việt Nam cần nhanh chóng nắm bắt, hành động mạnh mẽ để phát triển kinh tế số và xã hội số, phát triển thêm các ngành nghề kinh doanh mới, mở ra các thị trường mới và tạo thêm nhiều nhu cầu việc làm mới, từ đó vươn lên thay đổi thứ hạng quốc gia.

Cùng với đó, trong những năm gần đây, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các chiến lược, chương trình và kế hoạch tổng thể liên quan đến phát triển kinh tế số, như: Quy hoạch phát triển an ninh Công nghệ thông tin ban hành năm 2020; Chương trình mục tiêu phát triển Công nghệ thông tin giai đoạn 2020 - 2025; Chương trình hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đến năm 2025; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025; Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025… Nhờ vậy, hành lang chính sách phát triển kinh tế số được xây dựng và hoàn thiện theo hướng mở, hỗ trợ, tạo sự thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp vận hành kinh doanh.

Có thể thấy, việc thể chế hóa kịp thời quan điểm của Đảng thành các văn bản pháp luật và thực hiện đồng bộ các giải pháp đó đã mang lại những kết quả bước đầu tích cực trong phát triển kinh tế số tại Việt Nam. Một số kết quả đáng chú ý như sau:

Một là, tỷ trọng đóng góp của kinh tế số trong GDP tăng. Tỷ trọng kinh tế số trong GDP Việt Nam có xu hướng tăng lên trong giai đoạn 2020-2023. Năm 2020, tỷ trọng này là 12,66%; năm 2021 là 12,87%; năm 2022 là 12,63%. Năm 2023, tỷ trọng kinh tế số trong GDP năm 2023 đạt khoảng 16,5% GDP, tốc độ phát triển kinh tế số khoảng 20%/năm, gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP.

Theo nhiều đánh giá, tỷ trọng kinh tế số trong GDP của Việt Nam ở mức cao so với các nước trong khu vực. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, tỷ trọng kinh tế số trong GDP của Việt Nam cao hơn so với Thái Lan (12,1%), Indonesia (8,3%), Philippines (6,9%), Singapore (17,3%), Malaysia (23,1%). Bên cạnh đó, theo đánh giá của Google, tốc độ phát triển kinh tế số của Việt Nam ở mức nhanh nhất Đông Nam Á trong hai năm liên tiếp (28% vào năm 2022 và 19% vào năm 2023), vượt gấp 3,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP.

Hai là, tăng trưởng thị trường TMĐT (e-commerce) cao: Sự phổ biến của internet và điện thoại thông minh đã thúc đẩy mạnh mẽ việc mua sắm trực tuyến ở Việt Nam. Các nền tảng TMĐT như: Shopee, Lazada và Tiki… đã trở thành những điểm đến phổ biến cho người tiêu dùng, tạo cơ hội lớn cho doanh nghiệp. Theo khảo sát của Bộ Công Thương, năm 2022, doanh thu TMĐT bán lẻ tại Việt Nam ước tính tăng trưởng 20% so với năm trước, đạt 16,4 tỷ USD, chiếm 7,5% doanh thu bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng cả nước. Số lượng người tiêu dùng tham gia mua sắm trực tuyến là trên 54,6 triệu người, giá trị mua sắm trực tuyến của một người đạt gần 270 USD/năm. Năm 2023, quy mô thị trường TMĐT bán lẻ Việt Nam đạt 20,5 tỷ USD, tăng khoảng 4 tỷ USD (tương đương 25%) so với năm 2022. Theo đánh giá của tổ chức Statista, tính đến tháng 12/2023, tốc độ tăng trưởng TMĐT của Việt Nam được xếp vào nhóm 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng TMĐT hàng đầu thế giới. Theo Tổ chức Modor Intelligence, quy mô thị trường TMĐT Việt Nam ước đạt 14,7 tỷ USD trong năm 2024 và dự kiến sẽ đạt 23,77 tỷ USD vào năm 2029, tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng kép hằng năm là 10,09% trong giai đoạn dự báo (2024-2029).

Ba là, tăng cường thanh toán trực tuyến, phát triển của công nghệ FinTech: Lĩnh vực tài chính công nghệ (FinTech) đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, với sự xuất hiện của các ứng dụng và dịch vụ như công cụ quản lý tài chính cá nhân, vay tiền trực tuyến và chuyển tiền điện tử. Điều này giúp tăng cường tiện ích và tiết kiệm thời gian cho người dùng. Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể trong việc sử dụng các dịch vụ thanh toán trực tuyến như ví điện tử, thẻ tín dụng và các ứng dụng thanh toán di động như: Momo, ZaloPay, VnPay… Điều này góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các giao dịch TMĐT. Theo báo cáo của Hãng nghiên cứu thị trường Statista, tính đến tháng 8/2022, Việt Nam là quốc gia xếp thứ 2, với tỷ lệ 33,2% người thanh toán qua di động. Các quốc gia xếp tiếp theo lần lượt là Hàn Quốc (27,5%), Anh (26,7%), Ấn Độ (26,6%), Mỹ (25,6%).

Bốn là, thúc đẩy việc số hóa trong các ngành truyền thống như ngân hàng, bất động sản và giáo dục đang chuyển đổi số hóa để cung cấp các dịch vụ tiện ích hơn và tối ưu hóa quy trình làm việc; thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông (ICT). Việt Nam là một trong những quốc gia thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, với số lượng dự án tăng lên đáng kể; thúc đẩy sự phát triển của công nghệ blockchain và trí tuệ nhân tạo. Công nghệ blockchain và trí tuệ nhân tạo đang được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như tài chính, logistics và y tế ở Việt Nam, tạo ra những tiềm năng lớn cho sự cải thiện hiệu suất, tạo ra nhiều cơ hội mới cho sự phát triển của kinh tế số tại Việt Nam.

Năm là, tăng cường các hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo và chuyển đổi số. Việt Nam tiếp tục đứng trong nhóm 50 nước dẫn đầu với thứ hạng 46 trong Chỉ số Đổi mới Sáng tạo của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới năm 2023, tăng 2 bậc so với năm 2022. Chỉ số chuyển đổi số quốc gia của Việt Nam từ năm 2020 đến năm 2022 tăng 48%, từ 0,48 lên 0,71, năm 2023, chỉ số này dự báo đạt 0,75. Việt Nam cũng nằm trong nhóm 10 nước dẫn đầu về số lượng lượt tải mới ứng dụng di động trong 2 năm liên tiếp (2022, 2023), với tăng trưởng 46% người dùng trên các nền tảng số.

Sáu là, phát triển mạnh hạ tầng số hiện đại, đồng bộ, đáp ứng nhu cầu phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xây dựng xã hội số. Chiến lược dữ liệu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030 đang được xây dựng, hoàn thiện. Các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu ngành tiếp tục được hoàn thiện tạo nền tảng cho Chính phủ điện tử. Hệ thống kết nối, chia sẻ dữ liệu tiếp tục được nâng cấp, hiệu quả sử dụng được nâng cao. Tỷ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình đến hết năm 2023 đạt 54,2%. Các cơ quan và bộ ngành đã thành công trong việc đơn giản hóa 2.500 quy định kinh doanh và 528/1.086 thủ tục hành chính liên quan đến công dân. Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu mang lại kết quả cụ thể, giải quyết được các bài toán liên ngành mà trước đây rất khó giải quyết.

Một số tồn tại, hạn chế phát sinh

Những phân tích trên cho thấy, Việt Nam đã bước đầu xây dựng được khung pháp lý, chính sách cho phát triển kinh tế số, chủ động tham gia vào CMCN 4.0. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, hệ thống thể chế, chính sách của Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, chưa thực sự tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế số. Cụ thể:

Một là, môi trường pháp lý và thể chế để phát triển kinh tế số chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ và minh bạch. Các quy định thường không theo kịp với tốc độ số hóa nhanh chóng của nền kinh tế, còn có khoảng cách giữa quy định pháp luật với việc thực thi trong thực tế, chưa có hành lang pháp lý cho thí điểm triển khai áp dụng các mô hình kinh doanh, dịch vụ mới. Việt Nam còn thiếu và yếu trong việc tạo lập hành lanh pháp lý để thúc đẩy các nền tảng “mềm” cho kinh tế số như xây dựng các hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất trong quản lý nhà nước, hoặc đảm bảo sự cân bằng giữa quyền riêng tư, bảo mật dữ liệu, và tạo lập hệ thống cơ sở dữ liệu mở, cho phép doanh nghiệp có thể tiếp cận và chia sẻ thông tin, dữ liệu dễ dàng, tiết kiệm chi phí. Hệ quả là một số văn bản pháp lý rất chung chung, gây khó cho doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý, gây tâm lý vừa làm vừa e dè, ko dám đưa ra quyết sách và các giải pháp đột phá.

Hai là, hệ thống luật pháp của Việt Nam còn thiếu những quy định phù hợp cho một số mô hình kinh tế dựa trên nền tảng số, thiếu các chính sách đối với sự phát triển của một số công nghệ cốt lõi của CMCN 4.0 như blockchain, trí tuệ nhân tạo (AI), máy tự học (machine learning). Ngoài một số chủ trương hiện có như Chiến lược quốc gia về cuộc CMCN 4.0 và một số văn bản về tăng cường năng lực tiếp cận CMCN 4.0, hành lang pháp lý đối với phát triển các công nghệ 4.0 còn rất sơ khai. Đối với lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, chưa có luật và khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến AI, tư cách pháp lý của AI và thực thể mang AI, quyền sở hữu trí tuệ, quyền riêng tư hay trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến AI. Đối với các công nghệ blockchain hay máy tự học còn thiếu các quy định về bảo vệ cơ sở dữ liệu, dữ liệu cá nhân, thông tin riêng tư; vấn đề quyền cá nhân…

Ba là, hạ tầng cho kinh tế số chưa đồng bộ, năng lực kết nối số còn thấp. Việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia còn hạn chế. Năng lực nghiên cứu và ứng dụng các thiết bị còn hạn chế, đa phần được nhập khẩu với giá cao. Các sản phẩm Việt Nam có thể tự sản xuất (như điện thoại thông minh…), mới chủ yếu ở giai đoạn đầu, chưa hoàn toàn làm chủ công nghệ, giá thành sản xuất cao và khó cạnh tranh. Hạ tầng thanh toán số chưa đồng bộ. Các điểm bán hàng sử dụng máy POS để thanh toán còn rất hạn chế ở các khu vực nông thôn và miền núi. Việc phủ sóng thông tin di động vùng lõm còn khó khăn. Triển khai nền tảng số quốc gia còn chậm; dịch vụ công trực tuyến chưa thực sự thuận tiện, chưa khuyến khích người dân tiếp cận sử dụng. Một số cơ sử dữ liệu quốc gia chưa được hoàn thành hoặc chưa được kết nối, chia sẻ khai thác hiệu quả. Dữ liệu phục vụ quản lý kinh tế số, xã hội số còn hạn chế, chi phí thu thập cao, độ trễ dài.

Bốn là, nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế số còn hạn chế. Đa phần lao động Việt Nam thiếu kỹ năng về công nghệ thông tin và các kỹ năng số khác như lập trình các chương trình máy tự học, phân tích dữ liệu lớn, nghiên cứu phát triển trí tuệ nhân tạo… Đào tạo nghề, đại học và sau đại học chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu sự gắn kết giữa giáo dục và thực tiễn. Các mô hình đào tạo bậc cao hiện nay còn thiên về lý thuyết và ít thực hành.

Năm là, trình độ khoa học công nghệ còn hạn chế, năng lực tiếp thu công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam còn ở mức thấp. Việc tiếp cận các công nghệ mới chủ yếu theo hướng áp dụng các công nghệ có sẵn dưới hình thức liên doanh thực hiện với các đối tác nước ngoài đem đến, chưa có nhiều doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư cho nghiên cứu triển khai các công nghệ mới. Bên cạnh đó, khu vực tư nhân chưa thực sự đổi mới sáng tạo. Chỉ số công nghệ và đổi mới sáng tạo, vốn con người, tiếp thu công nghệ ở doanh nghiệp, tác động của công nghệ thông tin đến dịch vụ và sản phẩm mới của Việt Nam xếp thứ hạng thấp. Sự tham gia của doanh nghiệp vào hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia còn rất yếu. Đây cũng là một nguyên nhân khiến các sản phẩm công nghệ số của Việt Nam còn thiếu và/hoặc có giá thành khá cao, nên khả năng thương mại hóa thấp.

Sáu là, thiếu quy định về bảo vệ người dùng. Các quy định về bảo mật dữ liệu cá nhân còn thiếu và không đủ hiệu lực, dẫn đến việc dữ liệu cá nhân không được bảo mật. Điều này cũng khiến người dùng ngần ngại trong việc sử dụng các dịch vụ công nghệ số.

Bảy là, chưa có cơ chế giảm thiểu tác động tiêu cực và bộ máy quản lý thực sự hiệu quả để ngăn ngừa triệt để tình trạng gian lận thương mại, trốn thuế, thông tin giả, độc hại trên môi trường kinh tế số… Việc cụ thể hóa và thực hiện các chủ trương, chính sách của Chính phủ vẫn gặp không ít thách thức, trong đó có tư duy “co cụm”, e ngại “mất đất quản lý” của một số các cơ quan, ban ngành trong chia sẻ thông tin, dữ liệu, khiến cho việc phát triển chính phủ điện tử chậm chạp, xa mức kỳ vọng. Cùng với đó, việc việc kiểm tra, giám sát, đấu tranh với tội phạm, đảm bảo an ninh mạng còn nhiều thách thức.

Giải pháp phát triển kinh tế số tại Việt Nam

Những hạn chế nêu trên trong phát triển kinh tế số tại Việt Nam đòi hỏi cần tiếp tục thể chế hóa các nội dung về phát triển kinh tế số, hoàn thiện cơ chế, chính sách, khung khổ pháp luật nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế số, chuyển đổi số, TMĐT trong bối cảnh CMCN 4.0. Đồng thời, cần có những chính sách hỗ trợ những mô hình kinh doanh, chiến dịch quảng bá, khuyến khích phát triển dịch vụ, dòng sản phẩm, công nghệ số mang tính đổi mới sang tạo… Theo đó, một số nội dung trọng tâm cần tập trung cải cách, hoàn thiện bao gồm:

Thứ nhất, hoàn thiện các chính sách an toàn, an ninh trong nền kinh tế số. Hiện nay, dữ liệu nói chung và dữ liệu cá nhân nói riêng đang trở thành một loại “tài sản” có tầm quan trọng đặc biệt cho phát triển nền kinh tế số. Do đó, vấn đề thu thập và lưu trữ dữ liệu, đảm bảo an toàn dữ liệu, quyền riêng tư của người dùng, đảm bảo tuân thủ Luật An toàn thông tin mạng và Luật An ninh mạng là vấn đề các chủ thể tham gia vào hoạt động trên môi trường mạng rất quan tâm. Trong giai đoạn tới đây cần nghiên cứu, xây dựng khung pháp lý chặt chẽ về bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư trong không gian mạng, với chế tài nghiêm khắc xử phạt vi phạm quyền riêng tư dữ liệu. Các quy định đề xuất để bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư phải đảm bảo tính khoa học, đảm bảo hài hòa, không gây cản trở đến dòng chảy dữ liệu để thúc đẩy kinh doanh trong thời đại số. Cùng với đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân và doanh nghiệp về bảo mật và xác thực thông tin, các rủi ro, cách thức phòng ngừa, và nâng cao kỹ năng sử dụng công nghệ số và internet đảm bảo an toàn cho các giao địch điện tử.

Thứ hai, hoàn thiện chính sách cạnh tranh. Pháp luật về cạnh tranh ở Việt Nam gặp nhiều thách thức trong bối cảnh kinh tế số phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Sự giao thoa giữa nền kinh tế thực và kinh tế số đã dẫn đến những sự thay đổi về cách thức vận hành, kinh doanh một/nhiều ngành nghề. Những khái niệm, quy định cũ về các ngành nghề trở nên lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế số. Do đó, thời gian tới cần tập trung hoàn thiện chính sách cạnh tranh nhằm: (i) Đơn giản hóa quy định nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia sản xuất, cung ứng và ứng dụng công nghệ kỹ thuật số; (ii) Hoàn thiện quy định bảo vệ người tiêu dùng để đặt người tiêu dùng vào trung tâm của phát triển kinh tế số; (iii) Hoàn thiện hệ thống số liệu về kinh tế số để tạo điều kiện cho đánh giá tác động cạnh tranh khi xây dựng các văn bản mới liên quan đến kinh tế số; (iv) Quy định về đánh giá tác động cạnh tranh khi xây dựng các văn bản mới liên quan đến kinh tế số.

Thứ ba, hoàn thiện các chính sách về thuế với nền tảng số. Việc quản lý các mô hình kinh doanh mới dựa trên nền tảng số chưa được chặt chẽ, còn có nhiều kẽ hở, dẫn đến tình trạng thất thu thuế rất lớn. Hình thức kinh doanh dựa trên nền tảng công nghệ đã phá vỡ các nguyên tắc đánh thuế trước đây và làm nảy sinh rất nhiều vấn đề. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung những quy định liên quan đến quản lý thuế đối với hoạt động này theo hướng xây dựng cơ sở dữ liệu và triển khai rộng rãi các dịch vụ thuế điện tử như khai thuế điện tử, hoá đơn điện tử, nộp thuế online, trong đó lưu ý đến yếu tố sau: Đẩy mạnh tuyên truyền gắn với các chế tài phạt nghiêm minh nhằm nâng cao ý thức và dân trí của một bộ phận người dân tự giác trong việc đăng ký kinh doanh TMĐT cũng như kê khai, nộp thuế; Sớm ứng dụng các thành tựu mới của công nghệ thông tin như: AI, dữ liệu lớn… đồng thời, xây dựng các hệ thống kết nối liên ngành giữa thuế, hải quan, ngân hàng và các công ty cung cấp dịch vụ thanh toán, từ đó có được cơ sở dữ liệu chung của những người tham gia giao dịch TMĐT, giúp xây dựng hệ thống phân tích, dự báo cho cơ quan thuế.

Thứ tư, hoàn thiện các chính sách về sở hữu trí tuệ: Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ; Tập trung đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ; Thúc đẩy các hoạt động tạo ra tài sản trí tuệ; Khuyến khích, nâng cao hiệu quả khai thác tài sản trí tuệ; Phát triển các hoạt động hỗ trợ về sở hữu trí tuệ; Tăng cường nguồn nhân lực cho hoạt động sở hữu trí tuệ; Hình thành văn hóa sở hữu trí tuệ trong xã hội; Tích cực, chủ động hợp tác và hội nhập quốc tế về sở hữu trí tuệ.

Thứ năm, hoàn thiện các chính sách nhằm xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và hỗ trợ ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, phát triển kinh tế số, xã hội số. Cần ưu tiên tập trung phát triển các ngành liên quan đến kinh tế số như phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông (nhất là mạng băng rộng để tăng tốc truyền tải thông tin); phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông; phát triển các nguồn dữ liệu số; nội dung và dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông nhằm tạo động lực thúc đẩy các dịch vụ thông minh (tài chính - ngân hàng; thương mại điện tử; nông nghiệp số; du lịch số; công nghiệp văn hoá số; y tế; giáo dục và đào tạo...).

Thứ sáu, đẩy nhanh quá trình phát triển nguồn nhân lực cho kinh tế số. Phát triển đội ngũ chuyên gia và người sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông chuyên nghiệp; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kỹ năng số cho người sử dụng thông thường; nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng về khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ cho các doanh nghiệp phát triển kinh tế số. Cần có sự liên kết với các cơ sở đào tào đẩy mạnh đổi mới nội dung, chương trình giáo dục đào tạo theo hướng phát triển tư duy sáng tạo, khuyến khích áp dụng mô hình giáo dục đào tạo mới dựa trên nền tảng số, công nghệ số. Đồng thời, hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, đào tạo lại cho người lao động và tổ chức triển khai thiết bị số, Internet về các vùng hải đảo, vùng núi, vùng sâu vùng xa nhằm thu hẹp khoảng cách số cho người dân các vùng này trong quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.

Thứ bảy, xây dựng các chính sách nhằm phát triển và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo. Tiếp tục hỗ trợ phát triển doanh nghiệp số, nhất là khuyến khích thành lập doanh nghiệp khởi nghiệp về đổi mới sáng tạo dựa trên nền tảng công nghệ số, kỷ thuật số ở các lĩnh vực: Chính phủ điện tử, thương mại điện tử, đô thị thông minh, nông nghiệp thông minh. Đồng thời, có chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp tiếp cận các công nghệ hiện đại, tích hợp công nghệ số, xây dựng chiến lược và phát triển mô hình sản xuất kinh doanh dựa trên số hóa nhằm tối ưu các kỹ năng mới cho từng cá nhân, tổ chức và sử dụng chuỗi cung ứng thông minh một cách hiệu quả nhất.

Thứ tám, hoàn thiện thể chế để xây dựng chính quyền số - Chính quyền sáng tạo để phục vụ nhân dân ở các đô thị sáng tạo. Việt Nam cần có những quy định pháp luật để tiếp tục phát triển chính quyền điện tử theo 3 định hướng, đó là: (i) Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và quy hoạch tích hợp hệ thống thông tin trên nền tảng kết nối, chia sẻ; (ii) Nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công thông qua việc xây dựng môi trường thông tin điện tử cho các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp và toàn xã hội, cung cấp các dịch vụ công trực tuyến mức độ cao; (iii) Nâng cao nhận thức người dân, chú trọng tới lợi ích của tổ chức và công dân, lấy người dân làm trọng tâm, rút ngắn khoảng cách giữa người dân với các cơ quan nhà nước thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin.

Thứ chín, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về chuyển đổi số và phát triển nền kinh tế số. Cần có sự quan tâm sâu sắc của chính quyền các cấp trong vấn đề nâng cao trình độ nhận thức của xã hội về chuyển đổi số. Tăng cường, đổi mới phương thức tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông đại chúng, các phương tiện truyền thông xã hội. Xây dựng các kế hoạch cụ thể, quy mô lớn để phổ cập kiến thức về chuyển đổi số đến mọi người dân, doanh nghiệp và tổ chức để tổ chức thực hiện.

Tài liệu tham khảo:

  1. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Phát triển kinh tế số ở Việt Nam trong thời kỳ hậu Covid-19: Một số yêu cầu và lộ trình cải cách thể chế, 2020;
  2. Trương Thị Hiền, Việt Nam đẩy mạnh phát triển kinh tế số, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/825738/viet-nam-day-manh-phat-trien-kinh-te-so.aspx;
  3. Phùng Lê Dung, Ngô Cẩm Tú, Vai trò của nhà nước đối với phát triển kinh tế số ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Quản lý nhà nước, https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/09/12/vai-tro-cua-nha-nuoc-doi-voi-phat-trien-kinh-te-so-o-viet-nam-trong-giai-doan-hien-nay/
  4. Một số nguồn số liệu từ Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thông tin và Truyền thông.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 9/2024