Phát triển thị trường khoa học, công nghệ gắn với thương mại hóa

Trần Huyền

Hệ thống Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài giữ vai trò then chốt trong việc mở rộng cánh cửa hội nhập, kết nối thị trường và xúc tiến thương mại quốc tế. Trong bối cảnh khoa học và công nghệ đang trở thành động lực tăng trưởng mới, việc phát huy tối đa tiềm năng của lực lượng này sẽ góp phần quan trọng trong thúc đẩy thương mại hóa các sản phẩm công nghệ và mở rộng thị trường toàn cầu.

Phát triển thị trường khoa học, công nghệ được xác định là một trọng tâm ưu tiên của Việt Nam. Ảnh: internet
Phát triển thị trường khoa học, công nghệ được xác định là một trọng tâm ưu tiên của Việt Nam. Ảnh: internet

Vẫn là "thị trường bên mua"

Phát triển thị trường khoa học, công nghệ được xác định là một trọng tâm ưu tiên trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong những năm gần đây, thị trường khoa học, công nghệ Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Một trong những thành tựu nổi bật là việc khung pháp lý và chính sách đã được hoàn thiện hơn, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

Nguồn cung hàng hóa khoa học, công nghệ từ các viện, trường đã tăng đáng kể và nhu cầu cùng năng lực hấp thụ, làm chủ công nghệ của doanh nghiệp ngày càng cải thiện. Theo ông Trần Minh - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương), hơn 800 tổ chức trung gian đã được hình thành, bao gồm 20 sàn giao dịch công nghệ tại địa phương và 2 sàn giao dịch công nghệ cấp vùng. Ngoài ra, nhiều hoạt động Techmart, Techfest, ICTCOMM… được tổ chức thường niên, tạo không gian trao đổi hợp tác giữa các bên (cung - cầu) nhằm thúc đẩy thị trường khoa học, công nghệ còn non trẻ của Việt Nam.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Phó Cục trưởng Trần Minh cho hay, các số liệu thống kê về hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam cho thấy, 85% giá trị hợp đồng chuyển giao công nghệ trong giai đoạn 2018 - 2023 là từ nước ngoài vào Việt Nam, chủ yếu trong nội bộ doanh nghiệp FDI, trong khi chỉ có 2 hợp đồng chuyển giao từ Việt Nam ra nước ngoài. Điều này định hình Việt Nam là một "thị trường bên mua" và cho thấy hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu từ các viện, trường trong nước còn hạn chế.

Để khắc phục vấn đề này, cần thay đổi tư duy và cơ chế liên kết đa chiều, xây dựng năng lực hấp thụ công nghệ cho doanh nghiệp, tạo dựng niềm tin vào nghiên cứu nội địa và chuyên nghiệp hóa các tổ chức trung gian. Cơ chế spin-off trong Nghị quyết số 193/2025/QH15 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là một nỗ lực quan trọng để gắn kết trực tiếp nhà khoa học với thị trường, phá vỡ vòng luẩn quẩn này.

Ngoài ra, theo ông Minh, dù có 22 sàn giao dịch, tỷ lệ thương mại hóa tài sản trí tuệ tại Việt Nam còn thấp. Trung bình toàn cầu, khoảng 5% văn bằng sáng chế được thương mại hóa. Tỷ lệ ở các nước phát triển có thể đến 10%, trong khi tại Việt Nam chỉ đạt 0,1%, bằng 1/50 mức trung bình thế giới. Sở hữu trí tuệ mới chỉ được xem như một công cụ bảo vệ hình thức, chưa được coi là tài sản chiến lược.

Bên cạnh đó, thị trường khoa học, công nghệ còn đang đối mặt nhiều thách thức khác như: liên kết giữa Nhà nước - viện/trường - doanh nghiệp còn hạn chế; tổ chức trung gian (các sàn giao dịch) còn yếu về năng lực và tài chính; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu; quy mô thị trường còn nhỏ bé, chất lượng hàng hóa công nghệ nội địa còn hạn chế về tính thương mại hóa, năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp còn yếu…

Phát huy vai trò của hệ thống thương vụ

Để khắc phục nhưng tồn tại, hạn chế cũng như thúc đẩy phát triển thị trường khoa học công nghệ, Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công Trần Minh cho rằng, cần đẩy mạnh tăng cường mô hình liên kết ba nhà (Nhà nước - viện/trường - doanh nghiệp) trong hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Theo ông, thị trường khoa học công nghệ chỉ có thể phát triển khi nguồn cung (các viện, trường) và nhu cầu (doanh nghiệp) được kết nối chặt chẽ. Đồng thời, việc tăng cường vai trò của các trung gian chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực hấp thụ của doanh nghiệp sẽ góp phần giảm tình trạng kết nối hạn chế.

Trong bối cảnh đó, hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài đóng vai trò vô cùng quan trọng và cần được phát huy tối đa tiềm năng để thúc đẩy thương mại hóa và phát triển thị trường khoa học, công nghệ. Theo đó, các thương vụ là cầu nối thu hút công nghệ nguồn và đối tác chiến lược, là "cánh tay nối dài" của Việt Nam tại các trung tâm công nghệ tiên tiến trên thế giới.

Các Thương vụ có thể chủ động tìm kiếm, kết nối với các viện nghiên cứu, trường đại học, tập đoàn công nghệ nước ngoài có công nghệ phù hợp với nhu cầu phát triển của Việt Nam. Trong đó định hướng ưu tiên sẽ là các công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ cao, công nghệ lõi, công nghệ chiến lược và các giải pháp đổi mới sáng tạo.

Hệ thống Thương vụ còn có thể hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam thương mại hóa sản phẩm khoa học, công nghệ ra thị trường quốc tế. Theo đó, có thể cung cấp thông tin thị trường, tư vấn về tiêu chuẩn, quy định nhập khẩu, hỗ trợ quảng bá, xúc tiến thương mại và tìm kiếm đối tác, nhà phân phối cho các sản phẩm khoa học, công nghệ "Make in Vietnam" có tiềm năng xuất khẩu.

Với sự am hiểu về thị trường sở tại, Thương vụ có thể hỗ trợ các chuyên gia, tổ chức trung gian trong nước trong việc thu thập thông tin, đánh giá xu hướng công nghệ và tham vấn về định giá công nghệ, giúp giảm thiểu rủi ro bất cân xứng thông tin. Cùng với đó, làm đầu mối kết nối các viện, trường, doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác R&D nước ngoài để cùng thực hiện các dự án nghiên cứu chung, chuyển giao bí quyết công nghệ và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo.

Phó Cục trưởng Trần Minh cho rằng, Thương vụ cần phát huy vai trò trong việc giám sát, cảnh báo và hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đăng ký và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ khi hoạt động trên thị trường quốc tế, góp phần giảm thiểu rủi ro rò rỉ hoặc sao chép công nghệ. Đồng thời, tổng hợp thông tin về xu hướng công nghệ, chính sách đổi mới sáng tạo của các nước, từ đó tham mưu cho các cơ quan chức năng trong nước hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý thị trường khoa học, công nghệ.