Sầu riêng xuất khẩu: Bài học kiểm soát đầu vào, bảo vệ đầu ra

Xuân Thảo

Việc nhiều lô sầu riêng của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc bị phát hiện chứa dư lượng kim loại nặng cadimi vượt ngưỡng quy định đã và đang tạo ra những tác động tiêu cực, sâu sắc và nhiều mặt đối với ngành hàng tỷ USD. Không chỉ là một cảnh báo về an toàn thực phẩm, sự cố này còn là một bài kiểm tra khắc nghiệt về năng lực quản lý chất lượng, uy tín thương hiệu và sự bền vững của hoạt động xuất khẩu nông sản chủ lực của Việt Nam.

Về lâu dài, cần giải pháp gỡ khó cho sản xuất và xuất khẩu, quy hoạch vùng trồng tập trung và bền vững. Ảnh minh họa: TL
Về lâu dài, cần giải pháp gỡ khó cho sản xuất và xuất khẩu, quy hoạch vùng trồng tập trung và bền vững. Ảnh minh họa: TL

Vàng O và Cadimi - Hai cái tên đang làm “sầu” ngành sầu riêng

Sầu riêng cùng nhiều loại nông sản khác từng được kỳ vọng là mặt hàng mũi nhọn, góp phần giảm nhập siêu từ Trung Quốc. Thậm chí, theo đánh giá quốc tế, nếu xuất khẩu đạt kỳ vọng, mặt hàng này có thể đóng góp đến 1,6% GDP của Việt Nam.

Sau khi ký Nghị định thư về xuất khẩu sầu riêng với Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam tăng mạnh. Năm 2023, giá trị xuất khẩu trên 2 tỷ. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 3,2 tỷ USD, chiếm tới 45-47% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành rau quả. Tuy nhiên, mục tiêu đạt kim ngạch 3,7 tỷ USD xuất khẩu sầu riêng vào năm 2025 đang bị thách thức nghiêm trọng, khi nhiều lô hàng bị phía Trung Quốc trả về do tồn dư Cadimi và Vàng O vượt ngưỡng.

Đề cập đến nguyên nhân của tình trạng trên, phát biểu tại Hội thảo Phát triển bền vững ngành hàng sầu riêng, ông Đặng Phúc Nguyên- Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nhiễm Cadimi được các cơ quan chuyên môn và chuyên gia xác định là do sự tích tụ kim loại nặng trong đất, chủ yếu có thể xuất phát từ việc lạm dụng phân bón hóa học, đặc biệt là các loại phân bón có gốc lân (như DAP) trong một thời gian dài.

Quá trình canh tác chạy theo năng suất, thiếu kiểm soát đầu vào đã vô tình đưa chất độc vào chuỗi sản xuất. Bên cạnh Cadimi, vấn đề tồn dư chất cấm Vàng O - một loại hóa chất nhuộm công nghiệp dùng để tạo màu vàng đẹp cho vỏ sầu riêng, thúc trái chín đều - cũng bị phía Trung Quốc siết chặt kiểm tra, cho thấy những lỗ hổng trong khâu sơ chế, bảo quản sau thu hoạch.

Sự cố này đã phơi bày những điểm yếu cố hữu của một ngành hàng phát triển quá "nóng". Thiếu kiểm soát toàn diện chuỗi cung ứng - từ vật tư đầu vào (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật) đến quy trình canh tác tại vườn và xử lý sau thu hoạch. Sản xuất chạy theo số lượng - việc ồ ạt mở rộng diện tích, chạy theo năng suất mà chưa chú trọng đúng mức đến các tiêu chuẩn chất lượng bền vững. Sự lỏng lẻo trong quản lý và sử dụng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói - dẫn đến tình trạng khi một lô hàng vi phạm, uy tín của cả một vùng, thậm chí cả quốc gia bị ảnh hưởng.

Để sầu riêng Việt phát triển bền vững, ông Đặng Phúc Nguyên cho rằng, cần tiến hành triển khai các giải pháp cấp bách nhằm lấy lại niềm tin của người tiêu dùng.

Thứ nhất, thiết lập hệ thống giám sát chất lượng từ gốc, tăng cường khâu kiểm nghiệm tại cơ sở sản xuất sầu riêng. Xây dựng các chương trình giám sát an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật ngay tại vườn trồng, cơ sở đóng gói sầu riêng bằng cách mở rộng danh sách và nâng cao năng lực cho nhiều phòng xét nghiệm đủ chuẩn phủ kín các vùng trồng sầu riêng. Sau này, việc truy xuất nguồn gốc sẽ chính xác, rõ ràng khi các cơ quan chức năng Việt Nam hay Trung Quốc cần truy xuất về mã số , tồn dư chất cấm... của sầu riêng xuất khẩu.

Thứ hai, xử lý nghiêm các vi phạm. Ban hành các quy định, chế tài đủ mạnh để xử lý các hành vi vi phạm về chất lượng, an toàn thực phẩm và gian lận thương mại. Về lâu dài, cần giải pháp gỡ khó cho sản xuất và xuất khẩu, quy hoạch vùng trồng tập trung và bền vững; siết chặt quản lý và cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói; kiểm soát chặt chẽ vật tư đầu vào...

Ứng dụng công nghệ để theo dõi chất lượng, cảnh báo sớm rủi ro

Để xử lý tận gốc các vấn đề nhiễm Cadimi, Vàng O cho sầu riêng Việt Nam, đứng ở góc độ doanh nghiệp, ông Vũ Duy Hải, Tổng Giám đốc Vinacam nhận định: Theo quy định hiện hành, khi hàng hóa được nhập khẩu vào Việt Nam - dù đã có chứng nhận kiểm định và được hải quan thông quan - vẫn phải chịu sự giám sát của cơ quan chức năng trong quá trình lưu thông.

Nếu phát hiện hàng hóa không phù hợp với quy chuẩn Việt Nam, đặc biệt có chứa chất độc hại như Cadimi thì bắt buộc phải tiêu hủy hoặc tái xuất, theo đúng quy trình. Vì vậy, không thể chỉ dựa vào giấy tờ hợp lệ và quy trình thông quan để khẳng định lô hàng không có vấn đề, như vậy mới chỉ đi được một nửa chặng đường của quy trình quản lý.

Do đó, theo Tổng Giám đốc Vinacam, nếu mẫu đạt, cần công bố để dư luận yên tâm; nếu không đạt, phải xử lý theo quy định pháp luật. Trường hợp mẫu Cadimi vượt ngưỡng mà không công bố thì không có căn cứ xử lý lượng hàng doanh nghiệp đã chủ động thu hồi. Hàng tồn chưa bị thu hồi, cuối cùng vẫn có nguy cơ quay lại với cây trồng - hậu quả, như chúng ta đã thấy, là rất nghiêm trọng.

“Chúng tôi đánh giá cao nỗ lực của Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong việc thúc đẩy cấp mã số vùng trồng, đây là tín hiệu tích cực. Tuy nhiên, xin lưu ý rằng có mã số vùng trồng không đồng nghĩa với việc xuất khẩu sẽ tăng, nếu Cadimi và Vàng O vẫn vượt ngưỡng cho phép. Chúng tôi mong muốn các nhà khoa học, nhà quản lý đưa ra giải pháp căn cơ để xử lý tận gốc các vấn đề nhiễm Cadimi, Vàng O và các chất cấm khác theo đúng yêu cầu của nước nhập khẩu”, ông Vũ Duy Hải kiến nghị.

Còn theo ông Nguyễn Đỗ Dũng, Tổng Giám đốc Công ty Công nghệ Nông nghiệp Enfarm tại Tây Nguyên, để giải quyết được tình trạng trên có thể ứng dụng công nghệ để theo dõi chất lượng, cảnh báo sớm rủi ro. Cụ thể, hiện doanh nghiệp đang ứng dụng công nghệ để theo dõi chất lượng đất và cảnh báo sớm rủi ro trước mùa thu hoạch. Giải pháp này giúp xác định khu vực có nguy cơ cao, từ đó đưa ra các biện pháp cải tạo đất, đảm bảo chất lượng trái và nâng cao giá trị nông sản.

Với công nghệ hiện tại, ông Nguyễn Đỗ Dũng cho biết, có thể xác định sớm các rủi ro sinh học, đặc điểm đất đai nhờ vào dữ liệu và AI. Kết quả là giảm đến 70% số mẫu xét nghiệm cần thiết, từ đó tiết kiệm chi phí và tăng tốc độ xử lý. Hiện doanh nghiệp đã xây dựng nền tảng số giúp lấy mẫu, phân tích và trả kết quả một cách nhanh chóng, thay vì làm thủ công như trước.