Siết quản lý, mở thị trường để giữ vững vị thế cho sầu riêng Việt Nam

Xuân Thảo

Trong những năm gần đây, diện tích trồng và sản lượng sầu riêng tăng trưởng nóng, kéo theo sự mở rộng nhanh chóng quy mô xuất khẩu. Điều này cũng đặt ra áp lực lớn về kiểm soát chất lượng và đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật ngày càng nghiêm ngặt từ thị trường Trung Quốc.

Tăng tỷ trọng sản phẩm đông lạnh và chế biến sâu

Phát biểu tại Hội nghị phát triển ngành hàng sầu riêng bền vững được tổ chức ngày 24/5/2025, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy đánh giá, sầu riêng là một trong những mặt hàng nông sản tăng trưởng ấn tượng nhất trong thập kỷ qua. Diện tích trồng sầu riêng đã tăng gần 6 lần, lên gần 180.000ha, trong đó riêng tỉnh Đắk Lắk chiếm hơn 30.000ha, đưa loại quả này trở thành trái cây chủ lực trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp.

Bước ngoặt lớn diễn ra vào tháng 7/2022, khi Việt Nam ký Nghị định thư xuất khẩu chính ngạch sầu riêng sang Trung Quốc. Chỉ sau 2 năm, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đã vượt 3 tỷ USD, đưa sầu riêng trở thành một trong những sản phẩm chiến lược trong cơ cấu xuất khẩu nông sản của Việt Nam.

Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu, những hệ lụy từ phát triển nóng, đặc biệt là các dấu hiệu bất ổn trong 4 tháng đầu năm 2025 đang ngày càng bộc lộ rõ những yếu điểm của ngành sầu riêng Việt Nam như: tốc độ mở rộng sản xuất và khả năng tổ chức chuỗi cung ứng; yêu cầu kiểm soát chất lượng của thị trường nhập khẩu và năng lực đáp ứng còn hạn chế trong nước.

“Nếu không sớm tái cơ cấu, ngành hàng sầu riêng có nguy cơ đánh mất niềm tin từ khách hàng và làm tổn hại đến uy tín nông sản Việt Nam”, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhấn mạnh.

Ông Nguyễn Thiên Văn, quyền Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk, cho biết, theo số liệu thống kê từ 2015-2024, diện tích sầu riêng cả nước tăng nhanh từ 32.000ha (năm 2015) lên hơn 178.000ha vào năm 2024 (trung bình mỗi năm tăng 16.300 ha/năm). Trong đó, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Tiền Giang, Đồng Nai và Đắk Nông là các tỉnh có diện tích sầu riêng lớn nhất cả nước.

Riêng Đắk Lắk, diện tích sầu riêng đã đạt 38.800ha, chiếm 21,7% diện tích sầu riêng của cả nước. Tốc độ tăng sản lượng sầu riêng khoảng 126 nghìn tấn/năm. Sản lượng sầu riêng năm 2024 đạt trên 1,5 triệu tấn.

Hiện Việt Nam đã xuất khẩu sầu riêng sang 22 quốc gia và vùng lãnh thổ, với thị trường chính là Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Hồng Kông (Trung Quốc), Nhật Bản và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức và hạn chế của ngành sầu riêng. Cụ thể, tỷ lệ vùng trồng và cơ sở đóng gói được cấp mã số xuất khẩu còn thấp; ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất còn hạn chế, chất lượng chưa đồng đều; liên kết chuỗi giá trị còn lỏng lẻo, cơ sở hạ tầng sản xuất chưa đồng bộ; sản phẩm chủ yếu là chế biến thô, chưa nâng cao giá trị gia tăng; một số vi phạm về an toàn thực phẩm và gian lận trong sử dụng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói đã ảnh hưởng đến thương hiệu sản phẩm.

Trên cơ sở đó, ông Nguyễn Thiên Văn đề nghị, hoàn thiện cơ sở pháp lý, quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục cho các loại trái cây, đặc biệt là sầu riêng, để đáp ứng yêu cầu của thị trường nhập khẩu. Thành lập các Trung tâm kiểm nghiệm an toàn thực phẩm, Trung tâm kiểm dịch thực vật và cơ sở chiếu xạ tại tỉnh Đắk Lắk để giám sát, kiểm soát dư lượng các hoạt chất.

Sầu riêng đã trở thành một trong những sản phẩm chiến lược trong cơ cấu xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Ảnh minh họa: XT.
Sầu riêng đã trở thành một trong những sản phẩm chiến lược trong cơ cấu xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Ảnh minh họa: XT.

Rà soát và hoàn thiện quy định về quản lý mã số vùng trồng

Từ góc độ của cơ quan quản lý, ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, thị trường xuất khẩu chính của sầu riêng Việt Nam là Trung Quốc (năm 2024 chiếm 97,2%), do đó kim ngạch xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng khi có bất kỳ sự biến động nào từ thị trường Trung Quốc.

Năm 2025, Việt Nam vẫn là nhà cung cấp sầu riêng lớn thứ hai cho Trung Quốc nhưng có sự sụt giảm nghiêm trọng tới 71,3% về lượng và 74% về kim ngạch. Thị phần sầu riêng của Việt Nam tại Trung Quốc giảm từ 42,1% (năm 2024) xuống còn 28,2%.

Tổng cục Hải quan Trung Quốc yêu cầu rất khắt khe về kiểm soát an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật đối với sầu riêng xuất khẩu của Việt Nam. Cụ thể, sầu riêng xuất khẩu phải được phê duyệt mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói; không nhiễm sinh vật gây hại; đảm bảo an toàn thực phẩm về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kim loại nặng, Vàng O, vi sinh vật, chất cấm khác.

Theo ông Huỳnh Tấn Đạt, ngành hàng sầu riêng Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn trong quá trình phát triển. Trong những năm gần đây, diện tích trồng và sản lượng sầu riêng tăng trưởng nóng, kéo theo sự mở rộng nhanh chóng quy mô xuất khẩu. Điều này cũng đặt ra áp lực lớn về kiểm soát chất lượng và đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật ngày càng nghiêm ngặt từ thị trường Trung Quốc.

Để khắc phục những hạn chế trên, một số giải pháp đã và đang được Việt Nam triển khai như xây dựng mô hình kiểm soát cadmium trong canh tác, tăng cường quản lý sử dụng vật tư nông nghiệp, rà soát và hoàn thiện quy định về quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, phòng thử nghiệm; xử lý cảnh báo vi phạm và khôi phục mã số; làm việc với Tổng cục Hải quan Trung Quốc để tháo gỡ vướng mắc trong xuất khẩu; đồng thời phối hợp với địa phương, doanh nghiệp để giám sát và nâng cao tuân thủ quy định kỹ thuật.

Lãnh đạo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho rằng, trong thời gian tới, cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp cả trước mắt và lâu dài. Trước mắt là hoàn thiện cơ sở pháp lý, kỹ thuật và quy trình kiểm soát toàn chuỗi sản xuất - xuất khẩu; nâng cao năng lực kiểm soát an toàn thực phẩm, tăng cường phòng thử nghiệm đạt chuẩn quốc tế, tổ chức đoàn công tác sang Trung Quốc để đàm phán kỹ thuật, mở rộng thị trường và thúc đẩy xúc tiến thương mại.

Về lâu dài, cần cơ cấu lại ngành hàng theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm đông lạnh và chế biến sâu; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, xây dựng thương hiệu quốc gia; nâng cấp hệ thống logistics, tổ chức lại chuỗi liên kết và nâng cao năng lực thực thi của doanh nghiệp và địa phương. Tập trung vào hoàn thiện cơ sở pháp lý, đẩy mạnh nghiên cứu - chuyển giao công nghệ, tổ chức đàm phán với Trung Quốc để phê duyệt mới và khôi phục mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, đồng thời mở rộng đàm phán với các thị trường khác…