Việt Nam ngày càng thu hút lao động nước ngoài

Nguyệt Hà

Tính đến cuối năm 2024, cả nước có gần 162.000 lao động nước ngoài đang làm việc. Người lao động nước ngoài chủ yếu đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và phần lớn là nam giới…

Tạo điều kiện thuận lợi để tuyển dụng lao động nước ngoài
Tạo điều kiện thuận lợi để tuyển dụng lao động nước ngoài

Theo Bộ Nội vụ, công tác quản lý và cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đáp ứng được tình hình thực tiễn ngày càng khó khăn, phức tạp trong quá trình hội nhập và quan hệ ngoại giao quốc tế. 

Đến cuối năm 2024, cả nước có khoảng 161.992 lao động nước ngoài đang làm việc, trong đó có 12.797 người không thuộc diện cấp giấy phép lao động, 149.195 người thuộc diện cấp giấy phép lao động (trong đó cấp mới giấy phép lao động cho 108.932 người, gia hạn cho 18.779 người, cấp lại cho 11.936 người và 9.548 người đang hoàn thiện các giấy tờ trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động). Lao động nước ngoài đến từ khoảng 110 quốc gia, trong đó, quốc tịch Trung Quốc chiếm 30,9%, Hàn Quốc 18,3%, Đài Loan (Trung Quốc) 12,9%, Nhật Bản 9,5%, lao động từ các quốc gia khác chỉ chiếm 28,4%. Lao động nước ngoài là nam giới chiếm 83,1%; lao động có độ tuổi từ 30 trở lên chiếm 86% lao động nước ngoài.

Bên cạnh một số kết quả đạt được, qua tổng hợp, đánh giá tình hình triển khai việc cấp giấy phép cho người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và kiến nghị của các Hiệp hội, doanh nghiệp có một số tồn tại. Trong đó, về giải trình nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài, theo quy định tại khoản 1 Điều 152 của Bộ luật Lao động thì doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhà thầu chỉ được tuyển dụng người lao động nước ngoài vào làm vị trí công việc quản lý, điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật mà người lao động Việt Nam chưa đáp ứng được theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh.

Tuy vậy, trong bối cảnh Việt Nam đang thu hút các nhà đầu tư có năng lực, tài chính, các chuyên gia, người lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề cao làm việc trong những ngành, nghề mới như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số thì cần có những chính sách linh hoạt. Qua đó, giảm thời gian cấp giấy phép lao động để đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Vì vậy, Bộ Nội vụ cho rằng cần bổ sung các trường hợp nhà đầu tư, chuyên gia là nguồn nhân lực chất lượng cao của nước ngoài đang cần được thu hút, thì người sử dụng lao động không phải thực hiện giải trình nhu cầu mà được đề nghị cấp giấy phép lao động, hoặc xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động.

Về xác nhận điều kiện chuyên gia, Bộ Nội vụ cho rằng, theo quy định hiện hành, về cơ bản điều kiện xác nhận chuyên gia là “tốt nghiệp đại học trở lên hoặc tương đương và có ít nhất 3 năm kinh nghiệm làm việc” phù hợp với vị trí công việc mà người lao động nước ngoài dự kiến làm việc tại Việt Nam.

Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Việt Nam đã và đang đẩy mạnh phát triển nhiều ngành công nghiệp mới có hàm lượng tri thức cao, xây dựng và thực hiện nhiều công trình, dự án trọng điểm quốc gia (đường sắt cao tốc Bắc Nam, các nhà máy điện hạt nhân...). Cùng với các lĩnh vực mới (năng lượng xanh...), các ngành, nghề đặc thù đã và đang đặt ra yêu cầu trong việc sửa đổi các quy định về xác nhận chuyên gia. Từ đó, thu hút nguồn nhân lực bên ngoài là các chuyên gia, nhà khoa học, lao động có trình độ tay nghề cao... để phát triển đất nước.

Tuy nhiên, thực tế có nhiều trường hợp làm việc trong các lĩnh vực mới như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số hoặc các nước có quan hệ hữu nghị với Việt Nam (trường hợp sinh viên Lào đã tốt nghiệp ở Việt Nam)... mới chỉ có bằng đại học mà chưa có kinh nghiệm, nên không đủ điều kiện làm việc tại Việt Nam. Do đó, cần bổ sung các trường hợp nêu trên đủ điều kiện là chuyên gia làm việc tại Việt Nam.

Những bất cập nêu trên có nguyên nhân từ việc hệ thống thể chế, cơ chế chính sách chưa điều chỉnh đầy đủ các đối tượng lao động nước ngoài và hình thức làm việc. Cùng với đó, dự báo về nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài chưa kịp thời, đầy đủ. Công tác phối hợp, chia sẻ, kết nối dữ liệu và thông tin về người nước ngoài và lao động nước ngoài giữa các cơ quan Nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu quản lý. Hay ứng dụng công nghệ thông tin chưa đồng bộ trong toàn quốc, chưa triển khai số hóa trong quản lý lao động nước ngoài.

Chính vì vậy, việc xây dựng dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam là cần thiết. Nghị định này sẽ quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, gia hạn, thu hồi giấy phép lao động và giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động đối với người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

Các chính sách dự kiến được áp dụng đối với người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam. Người sử dụng người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam là người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, nhà thầu và cá nhân được phép hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật.