Hướng tới tiếp cận công bằng về giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số

Bích Hà

Công tác giáo dục và đào tạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo cơ hội việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần giảm nghèo đa chiều bền vững tại các địa bàn còn nhiều khó khăn.

Trẻ em, học sinh, sinh viên ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng các chính sách về bữa ăn bán trú, học phí, hỗ trợ học tập.
Trẻ em, học sinh, sinh viên ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng các chính sách về bữa ăn bán trú, học phí, hỗ trợ học tập.

Tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi người dân tộc thiểu số đến lớp đạt 98%

Phát biểu tại Hội thảo quốc gia “Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi: Thực trạng, thách thức và giải pháp” được tổ chức vừa qua, ông Thái Văn Tài - Vụ trưởng Vụ Giáo dục Phổ thông (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho biết, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa các quy định của pháp luật về chính sách dân tộc trong giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ trọng tâm được ưu tiên hàng đầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Các chủ trương, chính sách đối với đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi được thể chế hóa thành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng hoàn thiện, tương đối đầy đủ, đồng bộ. Đối tượng thụ hưởng được mở rộng nhằm thực hiện công bằng trong tiếp cận giáo dục đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Đồng thời, các chính sách được các cấp, ngành và địa phương tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp thời, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Ngoài chính sách của Nhà nước có tính ổn định, còn có các chương trình, đề án, dự án về phát triển giáo dục vùng khó khăn. Các tổ chức, cá nhân đều ưu tiên hỗ trợ cho Giáo dục và Đào tạo vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Nhờ đó, giáo dục, đào tạo vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã có những chuyển biến đáng kể.

Theo ông Thái Văn Tài, các nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư của bộ, ngành đã thể chế hóa các chính sách hỗ trợ cho các đối tượng. Trẻ em, học sinh, sinh viên ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng các chính sách về bữa ăn bán trú, học phí, hỗ trợ học tập.

Việc quy hoạch, xây dựng lưới trường lớp từ mầm non đến tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông được mở rộng, phát triển rộng khắp trên các địa bàn dân cư. Các điểm trường được xây dựng đến các thôn, bản vùng sâu, vùng xa đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.

Đặc biệt là hệ thống các trường chuyên biệt cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi được quan tâm đầu tư xây dựng ngày càng khang trang, phát huy hiệu quả tích cực từng bước nâng cao chất lượng dạy và học góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực có chất lượng cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi. 

Về chất lượng giáo dục đại trà, công tác phổ cập giáo dục trên tất cả địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã và đang hoàn thành các mục tiêu cơ bản. Tỷ lệ trẻ em mầm non, học sinh đến trường tăng cao, học sinh cấp tiểu học, trung học cơ sở bỏ học ngày càng giảm. Trong đó, trung bình trong 5 năm gần đây, tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo (5 tuổi) người dân tộc thiểu số đến lớp đạt 98% (tỷ lệ chung toàn quốc là 99%). Tỷ lệ huy động học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số trong độ tuổi ra lớp là 97,25% (tỷ lệ chung toàn quốc là 98,31%).

Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách liên quan đến nhà giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhằm mục tiêu thu hút, ổn định và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, góp phần phát triển giáo dục ở những khu vực này. 

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm nghèo đa chiều bền vững

Theo ông Lâm Văn Mẫn - Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, công tác giáo dục và đào tạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, thời gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực giáo dục phổ thông, đào tạo cử tuyển, giáo dục nghề nghiệp, dự bị đại học, đại học. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo cơ hội việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần giảm nghèo đa chiều bền vững tại các địa bàn còn nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực, công tác giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vẫn còn không ít khó khăn, bất cập như: mạng lưới trường lớp, điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học dù đã được tăng cường đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục. Đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về số lượng, chất lượng ở các cấp học so với các vùng, địa bàn khác. Công tác giáo dục nghề nghiệp, nhất là các chính sách đào tạo nghề ngắn hạn tại các địa phương hiệu quả chưa cao…

Theo ông Lâm Văn Mẫn, để khắc phục những khó khăn, hạn chế trên, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp mang tính đồng bộ, tổng thể, nhất là về mặt chính sách, pháp luật để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần củng cố an ninh, quốc phòng ở những địa bàn quan trọng của Tổ quốc.