Giải thách thức để lan tỏa thu hút vốn FDI vào Việt Nam:
Kỳ cuối: Nhiều giải pháp nhằm tăng sức hút với dòng vốn FDI
Để Việt Nam tạo ra lợi thế cạnh tranh mới so với các quốc gia, qua đó tạo thêm sức hút mới với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nước ta, lãnh đạo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính) cho rằng, cần triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả.
Quyết liệt cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh
Muốn tạo thêm lực hút mới với dòng vốn FDI, theo ông Đỗ Văn Sử - Phó Cục trưởng chỉ đạo, điều hành Cục Đầu tư nước ngoài, Việt Nam cần quyết liệt cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Một giải pháp quan trọng mà Việt Nam cần tập trung triển khai, theo ông Đỗ Văn Sử là phát triển kinh tế xanh và bền vững theo hướng tiếp tục thúc đẩy các dự án đầu tư vào công nghiệp xanh, năng lượng sạch và phát triển đô thị bền vững, hợp tác với các đối tác quốc tế trong việc chia sẻ kinh nghiệm và công nghệ để xây dựng nền kinh tế tuần hoàn, nhằm dành một tương lai bền vững cho các thế hệ sau.
Thúc đẩy các sáng kiến hợp tác trong lĩnh vực tài chính số và tài chính xanh, để các doanh nghiệp nước ngoài không chỉ đầu tư tài chính, mà còn hợp tác nhằm phát triển hệ sinh thái tài chính số và thúc đẩy các sáng kiến tài chính bền vững.
Ưu tiên thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao như: Trí tuệ nhân tạo, chuỗi cung ứng thông minh, năng lượng tái tạo và công nghệ xanh.
Theo đó, về thể chế, cần nghiên cứu xây dựng cơ chế áp dụng các thủ tục đầu tư, kinh doanh linh hoạt theo nguyên tắc hậu kiểm đối với những ngành, nghề kinh doanh phù hợp để tạo sự cạnh tranh trong quá trình thu hút và sử dụng vốn FDI.
Đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc ban hành các điều kiện đầu tư, kinh doanh đối với ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Nghiên cứu tiếp tục cắt giảm ngành, nghề và điều kiện đầu tư, kinh doanh không cần thiết, bất hợp lý, đảm bảo thực hiện đầy đủ, nhất quán quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư theo quy định của pháp luật.
Cũng cần hoàn thiện quy định của pháp luật về phòng ngừa tranh chấp đầu tư; đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết vướng mắc, tranh chấp của nhà đầu tư, cảnh báo sớm về nguy cơ phát sinh tranh chấp giữa Nhà nước và nhà đầu tư FDI.
Thêm vào đó là kiểm soát chặt chẽ hành vi thâu tóm của nhà đầu tư FDI và doanh nghiệp FDI đối với doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp lớn, hoạt động trong các lĩnh vực chiến lược. Kiểm soát chặt chẽ các dự án đầu tư có nguy cơ gây ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, trật tự công cộng.
Cần quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng theo hướng đồng bộ, hiện đại, với tư duy chiến lược, tầm nhìn dài hạn và gắn với liên kết vùng, nhằm tạo động lực lan tỏa phát triển. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế, trong đó có khu vực FDI đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng bằng nhiều hình thức, chú trọng theo mô hình hợp tác công tư (PPP), nghiên cứu xây dựng cơ chế chia sẻ rủi ro phù hợp với thông lệ quốc tế.
Mạnh mẽ đổi mới chính sách thu hút FDI
Để tạo sức hấp dẫn mới với dòng vốn FDI, lãnh đạo Cục Đầu tư nước ngoài cho rằng, Việt Nam cần đổi mới chính sách thu hút FDI theo hướng xây dựng chính sách thu hút FDI cân đối, hợp lý giữa các vùng, miền; bảo đảm việc thu hút, hợp tác FDI theo đúng định hướng, quy hoạch và yêu cầu phát triển. Chính sách ưu đãi đầu tư cần được xem xét, căn cứ vào kết quả đầu ra như: Giá trị gia tăng, hợp phần sử dụng công nghệ cao, nghiên cứu và phát triển, chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng cấp 1, cấp 2…

Từng bước chuyển từ thu hút FDI phù hợp với nhóm sản phẩm hiện có sang đón đầu và xây dựng cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư vào các lĩnh vực Việt Nam đang ưu tiên phát triển như: Công nghệ cao, chip, bán dẫn, năng lượng tái tạo…
Khẩn trương xây dựng thể chế, chính sách cho các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và các mô hình tương tự khác theo hướng xác định rõ trọng tâm phát triển và cơ chế, chính sách vượt trội phù hợp với đặc thù của từng mô hình, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ với các khu vực khác.
Phát triển công nghiệp hỗ trợ, thúc đẩy liên kết và lan toả
Một giải pháp quan trọng nữa Việt Nam cần triển khai, theo ông Sử là xây dựng chiến lược ưu tiên phát triển một số lĩnh vực cụ thể thuộc công nghiệp hỗ trợ theo từng thời kỳ. Đồng thời, xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp trong nước kết nối với doanh nghiệp FDI, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ, dần tiến tới tự chủ công nghệ và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Cũng cần có chính sách khuyến khích hợp tác, chuyển giao công nghệ và quản trị cho doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời, nâng cao các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về sản phẩm, bảo vệ môi trường, tài nguyên và tiết kiệm năng lượng phù hợp với tiêu chuẩn của khu vực và thế giới.
Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý chuyển giao công nghệ trên cơ sở xây dựng hệ thống văn bản đồng bộ trong thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ; hình thành liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp FDI với các viện nghiên cứu, trường đại học trong nước.
Tận dụng lợi thế cạnh tranh “động” để cải thiện hiệu quả hợp tác FDI
Một giải pháp quan trọng khác, theo ông Sử là Việt Nam cần phát huy năng lực nội tại và tận dụng lợi thế cạnh tranh “động” nhằm cải thiện hiệu quả hợp tác FDI.
Theo đó, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh theo hướng xác định rõ ngành, lĩnh vực, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh để có chính sách hỗ trợ phát triển phù hợp.
Xây dựng trung tâm tài chính quốc tế và khu thương mại tự do, nhằm thu hút nguồn lực theo hướng: Tạo môi trường đầu tư, kinh doanh tốt; thu hút và phát triển nguồn nhân lực ngành tài chính chất lượng cao; xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng và logsitics đẳng cấp quốc tế; phát triển khu vực tài chính của quốc gia minh bạch và lành mạnh, vững chắc; xây dựng thương hiệu và danh tiếng tầm cỡ quốc tế.
Nâng cao năng lực của doanh nghiệp trong nước bằng cách phát triển khu vực doanh nghiệp trong nước lớn mạnh, đủ thực lực hội nhập quốc tế; hỗ trợ tối đa doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp nhỏ và vừa để liên doanh, liên kết với khu vực FDI. Trong đó, tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới, công nghệ tiên tiến, công nghệ chủ chốt.

Cùng với đó là thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước liên doanh, liên kết thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của doanh nghiệp FDI trong những ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới, tiên tiến, tiến tới sở hữu và làm chủ công nghệ. Xây dựng cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp trong nước có đủ năng lực cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện, phụ kiện trong ngành công nghiệp hỗ trợ để thông tin rộng rãi cho các nhà FDI tiếp cận và kết nối.
Cũng cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo hướng tăng cường đào tạo chuyên môn, kỹ năng, kỷ luật và văn hóa lao động cho lực lượng lao động, đặc biệt là trong những ngành ưu tiên thu hút FDI, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, cũng như yêu cầu thu hút và sử dụng FDI. Nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp với các tập đoàn, nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước để đào tạo theo đơn đặt hàng.
Khuyến khích doanh nghiệp FDI đào tạo, nâng cao kỹ năng, trình độ cho lao động Việt Nam, tiến tới lao động nước ta có thể đảm nhiệm các vị trí quan trọng trong doanh nghiệp FDI.
Đồng thời khuyến khích sử dụng người lao động Việt Nam đã làm việc, tu nghiệp ở các quốc gia tiên tiến, trở về làm việc tại Việt Nam. Tiếp tục mở rộng mạng lưới liên kết và nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nhân tài người Việt Nam tại nước ngoài.
Cũng cần khuyến khích các tổ chức giáo dục nghề nghiệp toàn cầu đầu tư vào Việt Nam; đẩy mạnh phân luồng đào tạo đại học và dạy nghề; cải cách chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của hệ thống quản lý giáo dục, dạy nghề cho phù hợp và đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường lao động; đẩy mạnh mô hình "trường học trong doanh nghiệp".