Thực hiện quy hoạch điện VIII điều chỉnh: Hướng tới nền năng lượng hiện đại, bền vững

Bích Hà

Bộ Công Thương ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, xác định rõ lộ trình phát triển nguồn, lưới điện và phân công nhiệm vụ cụ thể.

Bộ Công Thương ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII điều chỉnh.
Bộ Công Thương ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII điều chỉnh.

Ngày 30/5/2025, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 1509/QĐ-BCT, phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch Phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050 điều chỉnh (gọi tắt là Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII điều chỉnh).

Kế hoạch được xây dựng nhằm cụ thể hóa Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025 của Thủ tướng Chính phủ; hướng đến mục tiêu đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế, xã hội theo từng thời kỳ, bảo đảm phát triển điện lực đi trước một bước.

Tổng công suất nguồn điện tăng mạnh

Theo Kế hoạch, đến năm 2030, tổng công suất nhiệt điện LNG 22.524 MW, nhiệt điện khí nội địa 14.930 MW, nhiệt điện than 31.055 MW, thủy điện 33.294 - 34.667 MW, điện mặt trời 46.459 - 73.416 MW và điện gió trên bờ từ 26.066 - 38.029 MW.

Điện gió ngoài khơi phục vụ nhu cầu trong nước đặt mục tiêu đạt 6.000 MW vào năm 2030 và tăng lên 17.032 MW vào năm 2035. Với hai nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2, mỗi nhà máy dự kiến công suất từ 2.000 đến 3.200 MW, dự kiến vận hành trong giai đoạn 2030 - 2035.

Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII điều chỉnh cũng xác định rõ các định hướng chiến lược liên quan đến nhập khẩu và xuất khẩu điện.
Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII điều chỉnh cũng xác định rõ các định hướng chiến lược liên quan đến nhập khẩu và xuất khẩu điện.

Riêng điện sinh khối, rác thải, nhiệt dư từ các quy trình công nghiệp... cũng được khuyến khích khai thác với tổng công suất điện sinh khối 1.523 - 2.699 MW; điện sản xuất từ rác, chất thải rắn là 1.441 - 2.137 MW.

Đến năm 2030, tổng công suất pin lưu trữ dự kiến đạt khoảng 10.000 - 16.300 MW. Phát triển điện mặt trời tập trung phải kết hợp với lắp đặt pin lưu trữ với tỷ lệ tối thiểu 10% công suất và tích trong 2 giờ.

Đẩy mạnh xuất nhập khẩu

Bên cạnh việc phát triển mạnh mẽ các nguồn điện trong nước, Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII điều chỉnh cũng xác định rõ các định hướng chiến lược liên quan đến nhập khẩu, xuất khẩu điện trong khu vực ASEAN và tiểu vùng Mekong mở rộng.

Theo đó, Việt Nam sẽ đẩy mạnh nhập khẩu điện từ các quốc gia có tiềm năng thủy điện lớn. Dự kiến đến năm 2030, tổng công suất nhập khẩu từ Lào đạt khoảng 9.360 - 12.100 MW, căn cứ theo các hiệp định hợp tác song phương đã ký kết giữa hai Chính phủ; tận dụng khả năng nhập khẩu phù hợp với điều kiện đấu nối từ Trung Quốc với quy mô hợp lý. Nếu điều kiện thuận lợi, giá thành hợp lý, có thể tăng thêm quy mô tối đa hoặc đẩy sớm thời gian nhập khẩu điện từ Lào về khu vực miền Bắc.

Ở chiều ngược lại, xuất khẩu điện cũng được xác định là một mũi nhọn mới trong hợp tác kinh tế khu vực. Đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu tăng quy mô xuất khẩu điện sang Campuchia lên khoảng 400 MW.

Đến năm 2035, công suất xuất khẩu điện sang các thị trường tiềm năng như Singapore, Malaysia và một số đối tác khác trong khu vực có thể đạt từ 5.000 - 10.000 MW và duy trì quy mô tối thiểu 10.000 MW đến năm 2050. Mức xuất khẩu này có thể điều chỉnh cao hơn tùy theo nhu cầu thực tế của bên nhập khẩu trên nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế, an ninh năng lượng quốc gia và an ninh quốc phòng.

Để phục vụ cho hoạt động xuất khẩu điện và sản xuất năng lượng mới, Bộ Công Thương đã xác định rõ các khu vực tiềm năng gồm miền Trung và miền Nam, quy mô xuất khẩu từ 5.000 MW đến 10.000 MW.

Sử dụng năng lượng tái tạo để sản xuất các loại năng lượng mới (như hydro xanh, amoniac xanh) phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu: Ưu tiên phát triển tại các khu vực có tiềm năng năng lượng tái tạo tốt, cơ sở hạ tầng lưới điện thuận lợi; quy mô phát triển phấn đấu đạt 15.000 MW (chủ yếu là nguồn điện gió ngoài khơi).

Bộ sẽ trình các cấp có thẩm quyền xem xét chủ trương xuất khẩu điện theo từng dự án cụ thể, bảo đảm tuân thủ đúng quy định pháp luật hiện hành.

Tiếp tục đầu tư lưới điện và điện vùng khó khăn

Theo Kế hoạch, khoảng 911.400 hộ dân tại 14.676 thôn, bản thuộc 3.099 xã trên toàn quốc sẽ được cấp điện qua lưới điện quốc gia hoặc các nguồn năng lượng tái tạo.

Trong đó, khoảng 160.000 hộ dân chưa có điện, 751.400 hộ dân cần cải tạo của 14.676 thôn bản trên địa bàn 3.099 xã. Số xã khu vực biên giới và đặc biệt khó khăn là 1.075 xã (43 tỉnh) thuộc các tỉnh, thành phố: Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Bắc Giang, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum, Đắk Nông, Đắk Lắk, Bạc Liêu, An Giang, Cần Thơ, Cao Bằng, Lai Châu, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Nghệ An, TP. Huế, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Lâm Đồng, Bình Thuận, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre, Trà Vinh, Kiên Giang, Sóc Trăng, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Hậu Giang, Cà Mau. Khu vực còn lại là 2.024 xã.

Ngoài phục vụ sinh hoạt, Kế hoạch đặt mục tiêu cấp điện 2.478 trạm bơm quy mô vừa và nhỏ (13 tỉnh) khu vực đồng bằng sông Cửu Long thuộc các tỉnh, thành phố Bến Tre, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Hậu Giang, Cà Mau, kết hợp cấp điện cho người dân.

Cấp điện lưới quốc gia hoặc các nguồn điện năng lượng tái tạo cho các đảo còn lại: Đảo Cồn Cỏ tỉnh Quảng Trị; Đảo Thổ Châu, An Sơn - Nam Du tỉnh Kiên Giang; Huyện đảo Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.