Thực hiện chính sách tài chính “lấy dân làm gốc” để bảo vệ nền độc lập
Một trong những chính sách tài chính được Chính phủ ban hành rất ý nghĩa, đúng đắn và quan trọng ngay sau khi ra đời là thành lập Quỹ Độc lập theo sắc Lệnh số 4/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 4/9/1945, trên tinh thần lấy dân làm gốc, dựa vào dân, vì lợi ích của dân, khơi dậy lòng yêu nước trong quốc dân đồng bào; qua đó, tổ chức thu nhận các món tiền và đồ vật mà nhân dân sẵn lòng quyên góp giúp Chính phủ, ủng hộ nền độc lập Quốc gia.

Trong khuôn khổ của Quỹ Độc lập, ngày 19/9/1945, “Tuần lễ Vàng” được phát động trong cả nước.
Trong bức thư gửi đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tuần lễ Vàng sẽ thu góp số vàng trong nhân dân và nhất là của các nhà giàu có để dùng vào việc khẩn cấp và quan trọng nhất của chúng ta lúc này là việc quốc phòng.
“Tuần lễ Vàng” sẽ tỏ cho toàn quốc đồng bào và cho toàn thể thế giới biết rằng trong lúc chiến sỹ Việt Minh trên các mặt trận quyết hy sinh giọt máu cuối cùng để giữ vững nền tự do, độc lập của nước nhà thì đồng bào ở hậu phương, nhất là những nhà giàu có cũng có thể hy sinh, đưa chút vàng để phụng sự Tổ quốc.
Như thế, “Tuần lễ Vàng” không những có ý nghĩa giúp vào nền tài chính quốc phòng, nó còn có một ý nghĩa chính trị quan trọng... Tôi tin rằng, toàn quốc đồng bào, nhất là các nhà giàu có, trong sự quyên giúp này sẽ xứng đáng với sự hy sinh, phấn đấu của chiến sỹ ái quốc trên các mặt trận”.
Quỹ Độc lập và “Tuần lễ Vàng” đã được đồng bào cả nước, nghèo cũng như giàu, nhiệt liệt hưởng ứng. Nhiều người đã không tiếc những tài sản, kỷ vật quý giá, thiêng liêng của gia đình, quyên góp toàn bộ tư trang của những người trong nhà... ủng hộ công quỹ.
Báo cáo ngày 20/5/1946 của Bộ Tài chính ghi rõ số tiền quyên vào Quỹ Độc lập được khoảng 20 triệu đồng và số vàng thu được trong “Tuần lễ Vàng” khoảng 370 kg, tương đương với tổng số thuế thân và thuế điền thổ cả nước thu được trong một năm dưới chế độ cũ.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ khiến nhu cầu chi viện của Chính phủ cho đồng bào, chiến sỹ miền Nam tăng mạnh. Ngày 10/4/1946, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 48/SL về chế độ đảm phụ quốc phòng nhằm động viên sự đóng góp rộng rãi, mang tính bắt buộc theo nghĩa vụ công dân phải bảo vệ Tổ quốc.
Chỉ trong thời gian ngắn, riêng ở Bắc Bộ và Trung Bộ có khoảng 8 triệu công dân đã đóng góp được xấp xỉ 40 triệu đồng, nhiều người được miễn cũng xin được đóng góp, người thuộc diện đóng góp xin nộp cao hơn mức quy định.
Các hình thức quyên góp, đảm phụ quốc phòng và một số khoản thuế cũng chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu chi tiêu của ngân sách ngày càng tăng cao.
Để có thể vươn lên thế chủ động về mặt tài chính, Đảng và Chính phủ quyết định phải chuẩn bị mọi điều kiện để in và phát hành giấy bạc Việt Nam. Giấy bạc Việt Nam phát hành đầu tiên từ ngày 3/2/1946 tại các tỉnh Nam Trung Bộ với sự hoan nghênh, ủng hộ của nhân dân.
Ta cũng thu hồi được một số lượng lớn tiền Đông Dương để chi dùng tại những vùng chưa phát hành tiền Việt Nam. Được sự tín nhiệm cao của nhân dân cả nước, đồng bạc Việt Nam đã dần dần được lan rộng không chính thức tại miền Bắc Trung Bộ và Bắc Bộ.

Phát hành giấy bạc Cụ Hồ, nâng cao vị thế nền Tài chính Cách mạng
Cuối năm 1946, quan hệ giữa ta với Pháp rất căng thẳng. Chủ động chuẩn bị kháng chiến, Chính phủ khẩn trương cho ra đời giấy bạc của chính quyền Cách mạng.
Ngày 23/11/1946, Quốc hội đã thông qua quyết định chính thức phát hành tờ giấy bạc Việt Nam sử dụng chung trên phạm vi cả nước. Giấy bạc do Bộ Tài chính phát hành nên còn được gọi là giấy bạc Tài chính hay Đồng bạc Cụ Hồ.
Được nhân dân phấn khởi đón nhận, giấy bạc của ta nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường tiền tệ, gây bất ngờ lớn cho kẻ địch.
Ngày 30/4/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh tuyên bố các loại giấy bạc của Ngân hàng Đông Dương phát hành đều không còn giá trị lưu hành tại các vùng tự do (trừ đồng bạc 1 đồng Đông Dương còn tạm thời được lưu hành một thời gian).
Qua đó, ta nắm độc quyền về phát hành tiền, vừa chống lại âm mưu của giặc dùng tiền Đông Dương phá giá đồng tiền của ta, vừa sử dụng tiền Đông Dương thu được qua đổi bạc như một ngoại tệ đưa vào vùng địch mua hàng hoá, vật tư, thuốc men cần thiết phục vụ kháng chiến và đời sống nhân dân.
Nam Bộ chưa có điều kiện in và phát hành giấy bạc vẫn được phép tiêu dùng tiền Đông Dương.
Cho đến đầu năm 1948, khi thực dân Pháp tuyên bố huỷ bỏ tờ giấy bạc 100 đồng Đông Dương, Chính phủ đã cho phép đóng dấu của Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ vào giấy bạc còn nằm trong tay nhân dân tại vùng ta kiểm soát để lưu hành như giấy bạc Việt Nam và cấm lưu hành những tờ giấy bạc 100 đồng Đông Dương không có dấu.
Cuối năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao cho Bộ Tài chính nhiệm vụ mua muối, tích trữ và bí mật chuyên chở, cất giấu tại các kho dự trữ ở các tỉnh miền núi. Điều này thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược của Chính phủ và Bác Hồ.