Thuế quan Hoa Kỳ và chiến lược chuyển mình của doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Để được hưởng mức thuế 20% khi xuất khẩu hàng hóa vào Mỹ, doanh nghiệp cần đảm bảo hồ sơ hàng hóa minh bạch và xuất xứ từ Việt Nam.

Nhiều biến động áp lực lên doanh nghiệp
Tại Diễn đàn xuất nhập khẩu (XNK) năm 2025 với chủ đề "Chiến lược mới trong dòng chảy toàn cầu" do Ngân hàng Công Thương Việt Nam tổ chức ngày 18/8 tại TP. Hồ Chí Minh đã quy tụ trên 500 doanh nghiệp XNK có quy mô lớn.
Theo các chuyên gia, từ giữa năm 2024 đến nay, Chính phủ Hoa Kỳ đã siết chặt chính sách thuế quan, quy trình điều tra phòng vệ thương mại được kiểm soát chặt hơn. Việc kiểm tra gian lận xuất xứ được tăng cường. Nhiều mặt hàng bị áp thuế đối ứng mạnh, đặc biệt từ các quốc gia có dấu hiệu "chuyển tải trung gian" - trong đó có Việt Nam.
Từ thực tế trên, doanh nghiệp xuất khẩu đối mặt với tiêu chuẩn kép: phải chứng minh rõ xuất xứ và đồng thời nâng cao năng lực quản lý rủi ro về chi phí, chuỗi cung ứng.
Các doanh nghiệp XNK hiện có ba nhu cầu cấp thiết: Thứ nhất, hiểu rõ chính sách mới để phòng tránh rủi ro; Thứ hai, định hình lại chiến lược thị trường, sản phẩm và vận hành; Thứ ba, cần tiếp cận chính sách hỗ trợ và kết nối phù hợp.
Không chỉ doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp, nhóm sản xuất - nhất là công nghiệp phụ trợ - cũng đang đứng trước một bước ngoặt lớn.
Việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu mở ra khoảng trống chiến lược. Dòng đơn hàng đang dịch chuyển. Tiêu chí chọn nhà cung ứng thay đổi. Doanh nghiệp Việt được đánh giá lại một cách sâu sắc hơn.
Tại diễn đàn, các chuyên gia kinh tế, nhà hoạch định chính sách đã cập nhật những chính sách mới có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp sản xuất và XNK- đặc biệt trong bối cảnh thị trường quốc tế liên tục biến động; phân tích các thay đổi chính sách từ Hoa Kỳ và những tác động trực tiếp đến doanh nghiệp Việt Nam.
Đồng thời, các chuyên gia cũng sẽ đưa ra khuyến nghị về kiểm soát gian lận xuất xứ, mở rộng thị trường xuất khẩu và chuyển đổi mô hình vận hành trong hoạt động XNK.
Ngoài ra, tại diễn đàn, các chuyên gia đã chia sẻ nhiều thông tin liên quan đến tận dụng dòng vốn đầu tư dịch chuyển, nâng cao tỉ lệ nội địa hóa và chuẩn hóa tiêu chí xuất xứ theo yêu cầu của các tập đoàn đa quốc gia.
Chia sẻ về chính sách thuế quan, ông Nguyễn Xuân Thành - Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright- Đại học Fulbright Việt Nam thông tin, theo Bộ Tài chính để đạt được mức tăng trưởng GDP 8% cả năm đòi hỏi kim ngạch XNK hàng hóa tăng 16%. Kịch bản GDP tăng 8,3-8,5%, XNK hàng hóa tăng 17%.
Nhận định về tác động đàm phán thuế quan trước những thông tin vừa được Mỹ công bố, ông Nguyễn Xuân Thành cho rằng, trên cơ sở đạt được thỏa thuận song phương “về mặt nguyên tắc” và so với các nền kinh tế châu Á khác, Việt Nam vẫn sẽ duy trì vị thế là điểm đến cho FDI trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị và dịch chuyển chuỗi cung ứng.
Đồng thời, tác động tới tăng trưởng và xuất khẩu trong ngắn hạn, như: kinh tế toàn cầu suy giảm tăng trưởng dưới tác động thuế quan; xuất khẩu 5 tháng cuối năm sẽ chịu tác động kép: thuế quan cao làm giảm cầu; giảm đơn hàng vì đã tăng xuất khẩu trong 7 tháng đầu năm.
Cùng quan điểm trên, TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh cho rằng, chính sách thuế quan của Mỹ không chỉ là câu chuyện tác động đến các ngành hàng mà còn tác động gián tiếp đến nhiếu vấn đề mà trực tiếp liên quan đến XNK, đằng sau đó là mức tăng trưởng.
“Ngoài đàm phán thuế quan, Chính phủ đã có những chính sách về tài khóa tương đối hiệu quả, như giảm thuế GTGT để kích cầu tiêu dùng; giảm tiền thuê đất…; cùng với đó là chính sách tiền tệ để hỗ trợ doanh nghiệp”- TS. Võ Trí Thành nhấn mạnh.
Đảm bảo hồ sơ xuất khẩu sạch
Đưa ra nhiều lưu ý cho doanh nghiệp về quy tắc xuất xứ hàng hóa, ông Vũ Xuân Hưng, Phòng pháp chế và Xác nhận chứng từ thương mại (VCCI- TP.Hồ Chí Minh) cho rằng, doanh nghiệp cần chứng minh hàng lắp ráp tại Việt Nam, quá trình lắp ráp diễn ra tại Việt Nam, linh kiện nhập khẩu, các bộ phận được nhập khẩu từ nước ngoài để lắp ráp.
Đặc biệt, các doanh nghiệp cần chú ý trong việc khai báo hải quan, sản phẩm đáp ứng tiêu chí xuất xứ và có thể được dán nhãn "Made in Vietnam".

Hàng có xuất xứ Việt Nam phải được chuyển đổi cơ bản. Nội dung này được quy định chi tiết tại Khoản 12 Điều 3 Nghị định 31/2018/NĐ-CP: "Thay đổi cơ bản là việc hàng hóa được biến đổi qua quá trình sản xuất, để hình thành vật phẩm thương mại mới, khác biệt về hình dạng, tính năng, đặc điểm cơ bản, hoặc Mục đích sử dụng so với hàng hóa ban đầu".
Đứng ở góc độ doanh nghiệp, bà Phùng Thị Ngọc Anh, Giám đốc cấp cao Dịch vụ tư vấn thuế Alvarez & Marsal cho biết, Hoa Kỳ áp thuế 20% đối với hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Đối với hàng hóa có dấu hiệu transhipping – tức là hàng hóa được cho là chỉ quá cảnh Việt Nam nhằm né thuế từ nước khác sẽ áp dụng mức thuế 40%.
Theo bà Ngọc Anh, doanh nghiệp cần lưu ý, bất kỳ công đoạn gia công thêm hoặc nguyên liệu được bổ sung vào hàng hóa tại một quốc gia khác phải tạo ra sự chuyển đổi đáng kể thì quốc gia đó mới được coi là “nước xuất xứ” (19 CFR Part 134).
Xuất xứ hàng hóa là nước, nhóm nước, hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hóa hoặc nơi thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hóa trong trường hợp có nhiều nước, nhóm nước, hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất ra hàng hóa đó. (Khoản 1 Điều 3 Nghị định 31/2018/NĐ-CP).
Để tránh những rủi ro về xuất xứ, bà Phùng Thị Ngọc Anh khuyến nghị, trong ngắn hạn, các doanh nghiệp chú ý đảm bảo hồ sơ xuất khẩu “sạch”. Theo đó, siết chặt quy trình về nguồn hàng, rà soát lại toàn bộ hồ sơ xuất xứ, C/O, hợp đồng gia công để đảm bảo minh bạch; tái cấu trúc chuỗi cung ứng và tìm nguồn cung ứng trong nước nhằm tăng tỷ lệ nội địa hóa; cắt giảm chi phí ngắn hạn, trì hoãn hoặc hoãn lại các khoản chi; chủ động làm việc với các hiệp hội ngành hàng và cơ quan quản lý để nắm bắt diễn biến chính sách kịp thời.
Về dài hạn, cần đầu tư chiều sâu vào sản xuất và công nghệ, đặc biệt ở các khâu có giá trị cao như thiết kế, phần mềm, nghiên cứu; giảm chi phí sản xuất, năng lượng và lao động thông qua cải tiến quy trình và công nghệ; giảm chi phí gián tiếp và tăng hiệu quả hoạt động thông qua số hóa và tính linh hoạt của chuỗi cung ứng; xây dựng chiến lược thị trường đa dạng, không chỉ phụ thuộc vào một thị trường duy nhất như Hoa Kỳ, tận dụng EVFTA, CPTPP.