Chỉ số giá 9 tháng năm 2015

Theo gso.gov.vn

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2015 giảm 0,21% so với tháng trước, là tháng Chín duy nhất trong 10 năm gần đây có CPI giảm, chủ yếu do tác động của giá xăng được điều chỉnh giảm vào thời điểm 19/8 và 03/9/2015; giá gas được điều chỉnh giảm vào thời điểm 01/9/2015. Ngoài ra, thời tiết chuyển sang mùa Thu nên nhu cầu sử dụng điện thấp hơn các tháng trước cũng tác động làm chỉ số giá điện sinh hoạt giảm.

Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, nhóm giao thông giảm mạnh với mức 3,17%; nhàở và vật liệu xây dựng giảm 0,68%; hàng ăn, dịch vụ ăn uống giảm 0,13% (lương thực giảm 0,24% do nguồn cung dồi dào và tình hình xuất khẩu gạo gặp khó khăn; thực phẩm giảm 0,14%; ăn uống ngoài gia đình giảm 0,02%); bưu chính viễn thông giảm 0,07%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác có chỉ số giá tăng nhẹ gồm: Giáo dục tăng 1,24%, chủ yếu do 25 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng học phí và nhu cầu sách vở, đồ dùng cho năm học mới tăng; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,43% do giá dịch vụ y tế ở một số tỉnh điều chỉnh tăng; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,21%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,1%; thiết bị vàđồ dùng gia đình tăng 0,07%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,03%.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2015 tăng 0,4% so với tháng 12/2014, là mức tăng thấp nhất trong 10 năm gần đây. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm nay tăng 0,74% so với bình quân cùng kỳ năm 2014.

Nhìn chung chỉ số giá tiêu dùng 9 tháng năm nay tăng tương đối thấp. Các yếu tố giữ cho giá tiêu dùng 9 tháng năm nay tăng thấp: (1) Nguồn cung về lương thực, thực phẩm dồi dào nhưng tình hình xuất khẩu gạo của nước ta gặp khó khăn đã tác động đến giá bán buôn, bán lẻ gạo trong nước giảm; (2) Giá các mặt hàng thiết yếu trên thế giới tương đối ổn định, trong đó giá nhiên liệu, chất đốt, sắt thép trên thị trường thế thới gần đây giảm mạnh; (3) Mức độ điều chỉnh giá một số nhóm hàng do Nhà nước quản lý như dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế thấp hơn các năm trước; (4) Các Bộ, ngành và địa phương đã triển khai tích cực và có hiệu quả Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03/01/2015 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2015.

Lạm phát cơ bản tháng 9/2015 tăng 0,06% so với tháng trước và tăng 1,87% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 9 tháng năm 2015 tăng 2,15% so với bình quân cùng kỳ năm 2014.

Chỉ số giá vàng vàđô la Mỹ

Chỉ số giá vàng tháng 9/2015 tăng 3,54% so với tháng trước; giảm 1,58% so với tháng 12/2014; giảm 5,83% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2015 tăng 2,71% so với tháng trước; tăng 5,1% so với tháng 12/2014 và tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2014.

Chỉ số giá sản xuất

Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng năm 2015 tăng 0,45% so với cùng kỳ năm trước (Quý I tăng 2,05%; quý II tăng 0,23%; quý III giảm 0,91%), trong đó chỉ số giá bán sản phẩm hàng nông nghiệp tăng 1,29%; chỉ số giá bán sản phẩm hàng lâm nghiệp tăng 4,54% và hàng thủy sản giảm 2,86%. Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp giảm 0,74% so với cùng kỳ năm 2014 (Quý I tăng 0,15%; quý II giảm 0,36%; quý III giảm 0,78%), trong đó chỉ số giá bán sản phẩm khai khoáng giảm 10,8%; chỉ số giá bán sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,01%; chỉ số giá bán điện và phân phối điện tăng 4,63%; chỉ số giá bán nước sạch, nước thải, xử lý nước thải, rác thải tăng 2,19%.

Chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất 9 tháng năm nay tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tăng cao nhất là máy móc thiết bị chưa phân vào đâu với mức tăng 4,76% (Quý I tăng 3,77%; quý II tăng 3,98%; quý III tăng 6,55%); khai khoáng tăng 3,22% (Quý I tăng 2,35%; quý II tăng 3,88%; quý III tăng 3,46%); nước cung cấp và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,21% (Quý I tăng 3,99%; quý II tăng 2,95%; quý III tăng 2,7%); chế biến, sửa chữa và lắp đặt máy móc thiết bị tăng 3% (Quý I tăng 2,78%; quý II tăng 3,62%; quý III tăng 2,59%); nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,96% (Quý I tăng 3,46%; quý II tăng 3,74%; quý III tăng 1,7%); thực phẩm, đồ uống và thuốc lá tăng 2,17% (Quý I tăng 3,12%; quý II tăng 1,8%; quý III tăng 1,58%); sản phẩm từ cao su, khoáng phi kim loại tăng 1,41% (Quý I tăng 1,84%; quý II tăng 1,49%; quý III tăng 0,9%); gỗ chế biến, giấy và in giấy tăng 1,21% (Quý I tăng 1,05%; quý II tăng 1,37%; quý III tăng 1,23%).

Chỉ số giá cước vận tải kho bãi 9 tháng năm 2015 giảm 2,89% so với cùng kỳ năm 2014, chủ yếu do giá cước dịch vụ vận tải đường sắt, đường bộ giảm mạnh ở mức 5,81% (Quý I giảm 3,18%; quý II giảm 6,67%; quý III giảm 7,53%). Các dịch vụ vận tải khác có giá tăng hoặc giảm: Dịch vụ kho bãi và hỗ trợ vận tải tăng 1,24%; vận tải đường thuỷ giảm 1,76%; riêng vận tải đường hàng không có giá ổn định.

Chỉ số giá sản xuất dịch vụ 9 tháng năm 2015 tăng 1,34% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 2,96%; thông tin và truyền thông tăng 0,42%; giáo dục và đào tạo tăng 5,5%; y tế và trợ giúp xã hội tăng 2,05%; hoạt động chuyên môn, khoa học, công nghệ tăng 1,83%; hoạt động hành chính và hỗ trợ tăng 1,63%.

Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa

Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá 9 tháng năm 2015 giảm 3,86% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số mặt hàng có chỉ số giá giảm mạnh: Dầu thô giảm 51,31%; xăng dầu các loại giảm 48,49%; cao su giảm 25,68%; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác giảm 17,65%; than đá giảm 9,55%.

Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá 9 tháng năm 2015 giảm 4,5% so với cùng kỳ năm 2014, trong đó một số mặt hàng có chỉ số giá giảm mạnh: Khí đốt hóa lỏng giảm 41,59%; xăng dầu các loại giảm 38,4%; cao su giảm 17,32%; phân bón các loại giảm 14,99%; sắt, thép giảm 13,1%; thức ăn gia súc và nguyên liệu giảm 10,42%; xơ, sợi dệt giảm 8,61%.

Tỷ giá thương mại hàng hóa 9 tháng năm nay tăng 0,67% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tỷ giá thương mại của hàng thủy sản tăng 4,63%; sắt thép tăng 7,53%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 4,98%.