Tạo hành lang pháp lý để phát triển thị trường ngành hàng tỷ USD

Minh Đức

Việt Nam đang từng bước triển khai các giải pháp nhằm quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ Halal tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao phục vụ nhu cầu trong và ngoài nước.

Chất lượng sản phẩm, dịch vụ Halal cần được quản lý bằng hành lang pháp lý chặt chẽ.
Chất lượng sản phẩm, dịch vụ Halal cần được quản lý bằng hành lang pháp lý chặt chẽ.

Thị trường tiềm năng quy mô 10.000 tỷ USD

Theo tiếng Ả Rập, "Halal" có nghĩa là "được phép". Theo tín ngưỡng, người Hồi giáo chỉ sử dụng những sản phẩm được Thượng đế (Allah) cho phép và thể hiện sự cho phép là sản phẩm đó được chứng thực Halal theo Kinh Qur’an và Luật Hồi giáo (Sharia).

Các sản phẩm Halal bao gồm hầu như tất cả sản phẩm thiết yếu của cuộc sống như: thực phẩm, đồ uống, thực phẩm hữu cơ, thực phẩm chức năng, dược phẩm, mỹ phẩm, dệt may, thủ công mỹ nghệ. Bên cạnh đó là các lĩnh vực dịch vụ như: Ngân hàng, du lịch, an ninh, giáo dục và đào tạo, dịch vụ ăn uống, khách sạn, logistics.

Thị trường tiêu thụ sản phẩm Halal phân bổ khắp thế giới, từ các nước Hồi giáo đến phi Hồi giáo, từ các nền kinh tế phát triển đến đang phát triển, do các sản phẩm Halal đáp ứng nhiều tiêu chí về vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo đảm sức khỏe, chất lượng, xanh, sạch, có đạo đức trong chế biến và góp phần bảo vệ môi trường…

Thị trường Halal toàn cầu có tiềm năng rất lớn xét về quy mô dân số Hồi giáo, với khoảng 1,94 tỷ người vào năm 2022, chiếm gần 1/4 dân số thế giới. Dân số Hồi giáo sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức trung bình 1,5%/năm, cao gấp đôi so với dân số phi Hồi giáo (0,7%/năm) và dự kiến sẽ đạt khoảng 2,8 tỷ người và năm 2050.

Quy mô nền kinh tế Halal toàn cầu đạt 7000 tỷ USD năm 2022 và dự kiến tăng lên khoảng 10.000 tỷ USD năm 2028 nhờ tăng trưởng quy mô dân số Hồi giáo, mức chi tiêu, sự đa dạng về lĩnh vực và triển vọng tăng trưởng trong tương lai với tốc độ khoảng 6-8%/năm.

Tiềm năng là rất lớn, tuy nhiên, hiện nay Việt Nam chỉ có khoảng 20 mặt hàng xuất khẩu ở thị trường Halal. Năm 2023, kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam với 10 đối tác thương mại lớn là thành viên Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC) đạt 45,7 tỷ USD.

Việt Nam và một số quốc gia Hồi giáo đặt mục tiêu tăng kim ngạch thương mại song phương thời gian tới. Tiêu biểu như với Malaysia, Việt Nam đặt mục tiêu tăng kim ngạch thương mại lên 18 tỷ USD; với Indonesia lên 18 tỷ USD; với UAE lên 10 tỷ USD, với Thổ Nhĩ Kỳ lên 5 tỷ USD; và với Iran lên 2 tỷ USD…

Cùng với đó, thị trường du lịch Halal cũng rất tiềm năng, tập trung đông ở khu vực Đông Nam Á, Nam Á, Nam Thái Bình Dương. Theo thống kê của Cục Du lịch quốc gia, năm 2023, khách Halal đến Việt Nam từ Ấn Độ, Malaysia, Indonesia, các nước Trung Đông đạt khoảng 1,5 triệu lượt, chiếm gần 12% trong 12,6 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam. Trong đó, thị trường Ấn Độ đang tăng trưởng mạnh, năm 2023, đã có 392.000 khách Ấn Độ đến Việt Nam, tăng gấp 3 lần so với năm 2019.

Cần hành lang pháp lý chặt chẽ

Để đảm bảo định hướng phát triển thị trường Halal, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt Đề án “Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030”. Đây là hướng đi mới trong công tác ngoại giao kinh tế, nhằm khai mở thị trường Halal toàn cầu rất giàu tiềm năng.

Tuy nhiên, hiện Việt Nam chưa có một khung pháp lý thống nhất và đồng bộ để quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh và chứng nhận sản phẩm, dịch vụ theo tiêu chuẩn Halal. Điều này tạo ra những khó khăn, vướng mắc cho cả cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp trong việc phát triển ngành Halal, cũng như đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng.

Trong bối cảnh đó, Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng dự thảo Nghị định quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ Halal nhằm thiết lập một khung pháp lý thống nhất, đồng bộ để quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh và chứng nhận sản phẩm, dịch vụ theo tiêu chuẩn Halal.

Theo dự thảo Nghị định đang được lấy ý kiến, quy định rõ: sản phẩm Halal là sản phẩm đã được tuyên bố là hợp pháp hoặc được phép theo luật Hồi giáo. Dịch vụ Halal là bất kỳ hoạt động nào liên quan đến các sản phẩm Halal như vận chuyển, lưu trữ, đóng gói, đóng kiện, trưng bày, xử lý và bất kỳ hoạt động liên quan nào khác.

Dự thảo Nghị định đề xuất quy định sản phẩm, dịch vụ Halal phải tuân thủ đồng thời các quy định của luật Hồi giáo (Sharia) và tiêu chuẩn Halal mà cơ sở sản xuất, kinh doanh đã công bố áp dụng.

Đối với sản phẩm Halal, các yêu cầu bao trùm từ nguyên liệu, phụ gia phải là Halal, quy trình sản xuất phải đảm bảo vệ sinh và ngăn ngừa nhiễm chéo, cho đến việc đóng gói, lưu trữ và vận chuyển phải được tách biệt để bảo toàn tính Halal. 

Tất cả sản phẩm Halal khi lưu thông trên thị trường phải được ghi rõ cụm từ "SẢN PHẨM HALAL" hoặc "HALAL" bằng chữ Latinh in hoa trên nhãn ở vị trí dễ thấy và không thể tẩy xóa. Nhãn sản phẩm, ngoài các nội dung bắt buộc theo quy định chung, phải có tên và logo của tổ chức đã cấp chứng nhận Halal cùng với số hiệu của giấy chứng nhận. Thiết kế bao bì và nhãn mác không được chứa hoặc gợi liên tưởng đến các yếu tố bị cấm (Haram) hoặc các biểu tượng không phù hợp với đạo Hồi.

Dự thảo Nghị định cũng khuyến khích việc ứng dụng các giải pháp công nghệ như mã QR hoặc blockchain để tăng cường khả năng truy xuất nguồn gốc...

Có thể thấy, việc ban hành Nghị định quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ Halal là cần thiết nhằm tạo hành lang pháp lý chặt chẽ, thúc đẩy phát triển hệ sinh thái Halal tại Việt Nam, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao phục vụ nhu cầu trong và ngoài nước trong thời gian tới.