Việt Nam cần có nhiều giải pháp để thị trường FinTech phát triển toàn diện
Đó là thông điệp được đưa ra tại hội thảo khoa học: “Công nghệ Tài chính Việt Nam; thực trạng và dư địa phát triển” do Khoa Tài chính, Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội tổ chức chức ngày 5/6. Sự kiện thu hút nhiều chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực tài chính đã đem đến góc nhìn sâu sắc về tiềm năng và thách thức cũng như đưa ra các giải pháp công nghệ nhằm phát thị trường tài chính tại Việt Nam.

Giá trị giao dịch FinTech trong nước đạt khoảng 31,6 tỷ USD vào năm 2024
Theo TS. Hoàng Thị Ngọc Thủy, Phó chủ nhiệm phụ trách Khoa Tài chính- Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, Công nghệ tài chính (FinTech) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện. Các dịch vụ FinTech không chỉ giúp người dùng tiết kiệm chi phí hơn các kênh truyền thống mà còn xóa bỏ rào cản về địa lý, vùng miền, cũng như làm gia tăng khả năng tiếp cận đối với các nhóm yếu thế. Doanh thu ngành FinTech toàn thế giới đạt 176,35 tỷ USD năm 2023 và dự kiến đạt 311,11 tỷ USD vào năm 2028.
Tại Việt Nam thị trường FinTech đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về mặt số lượng công ty, sự đa dạng trong sản phẩm, dịch vụ và thu hút vốn đầu tư. Theo nghiên cứu của Solidiance, thị trường FinTech Việt Nam đạt 4,4 tỉ USD giá trị giao dịch vào năm 2017 và đạt khoảng 7,8 tỉ USD vào năm 2020, tương đương với mức tăng 77% trong vòng 03 năm. Số lượng các công ty FinTech tại Việt Nam cũng tăng lên nhanh chóng, từ khoảng 40 công ty vào cuối năm 2013 lên hơn 260 công ty ở thời điểm cuối năm 2022.
Đáng kể, năm 2022, tổng giá trị giao dịch của thị trường FinTech Việt Nam đạt 22,6 tỷ USD, tăng 4,6 tỷ USD so với năm 2021. Theo BDA Partners, giá trị giao dịch của toàn thị trường đạt 27,2 tỷ USD năm 2023 và dự kiến sẽ đạt khoảng 31,6 tỷ USD vào năm 2024.
Theo xếp hạng của World Bank, điểm FinTech của Việt Nam xếp hạng 67 trên thế giới và thứ 108 xếp sau các quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương như: Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Philippines và Thái Lan.
Hiện nay, nhiều ngân hàng tại Việt Nam đã “bắt tay” cùng phát triển với FinTech, xây dựng chiến lược ngân hàng số và cung cấp các sản phẩm số hóa mới để cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Theo Acclime Vietnam and Decision Lab (2023), có tới 72% công ty FinTech là đối tác với các ngân hàng thương mại (NHTM), chỉ có 14% công ty FinTech phát triển các dịch vụ mới và 14% công ty FinTech cạnh tranh với các NHTM.
Trong 6 tháng đầu năm 2024, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt đạt 7,83 tỷ giao dịch, với giá trị đạt 134,9 triệu tỷ đồng (tăng 58,23% về số lượng và 35,01% về giá trị) so với cùng kỳ năm 2023. Tổng số tài khoản Mobile-Money được đăng ký và sử dụng là khoảng 9,13 triệu tài khoản, trong đó số lượng khách hàng đăng ký và sử dụng dịch vụ ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo chiếm khoảng 72% .
Theo khảo sát do Visa thực hiện, 65% khách hàng Việt Nam mang ít tiền mặt trong người hơn thẻ, 76% khách hàng sử dụng ví điện tử và người dùng thẻ nhiều hơn người dùng tiền mặt (chiếm 82%). Ít nhất mỗi tuần một lần, hơn 80% số người được hỏi sử dụng thẻ, thanh toán bằng mã QR và ví điện tử.
Có thể thấy, từ khởi điểm là lĩnh vực có quy mô nhỏ, lẻ mang nhiều tiềm năng ứng dụng, đến nay thị trường công nghệ tài chính Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ, toàn diện góp phần phát triển lĩnh vực tài chính trên phạm vi toàn cầu.
Nhiều dư địa phát triển
Bên cạnh những tác động tích cực thì Fintech cũng đối diện nhiều rủi ro, thách thức như rủi ro về an ninh mạng, trộm cắp dữ liệu cá nhân, cơ sở hạ tầng mạng chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Chưa kể, sự bùng nổ của công nghệ tài chính còn dẫn đến một hình thức bất công mới khi mà một nhóm những người yếu thế, những người lớn tuổi, ít hiểu biết về công nghệ bị loại trừ ra khỏi xu hướng chung và ngày càng thiếu tính cạnh tranh vì không có khả năng thích ứng.
Đáng kể hơn, FinTech dẫn đến sự thay đổi lớn trên thị trường lao động khi nhiều phần việc được tự động hóa bằng qui trình điện tử hoặc công nghệ AI. Xu hướng này cũng tạo ra nhiều việc làm mới với mức lương cao nhưng rào cản ra nhập thị trường lớn bởi tính chuyên nghiệp và đặc thù của ngành công nghệ này.
Chưa kể, nhìn nhận về thị trường công nghệ tài chính Việt Nam hiện nay, tại hội thảo các chuyên gia cũng cho rằng, khung pháp lý về các công nghệ tài chính và công ty FinTech tại Việt Nam vẫn ở trong giai đoạn sơ khai, trong đó ngoài mảng thanh toán thì hoạt động quản lý FinTech còn nhiều hạn chế. Mặc dù Việt Nam đã có một số quy định pháp lý liên quan đến hoạt động FinTech như Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ thông tin, Nghị định số 27/2007/NĐ-CP ngày 23/2/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính, Nghị định số 35/2007/NĐ-CP ngày 8/3/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng... nhưng nhìn chung hành lang pháp lý vẫn còn nhiều thiếu sót.
Chẳng hạn, khung khổ pháp lý đối với hoạt động FinTech hiện chưa được đề cập tại bất kỳ văn bản pháp lý cụ thể nào; chưa có quy định về cơ chế quản lý; một số quy định về ứng dụng các công nghệ trong hoạt động của các tổ chức tài chính tại Việt Nam còn chưa rõ ràng dẫn đến việc chậm chạp trong việc ứng dụng những công nghệ tiên tiến. Ngoài ra, một số công nghệ, do chưa phù hợp với điều kiện của thị trường hiện nay đã bị cấm khiến thị trường Việt Nam kém cạnh tranh hơn trong dài hạn...
Mặc dù vậy, mới đây, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024, về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Trong đó có một số giải pháp quan trọng như đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số hay tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Những giải pháp này cũng đồng thời sẽ giúp phát triển lĩnh vực FinTech, vốn đang gặp khó về thể chế cũng như quan điểm quản lý chưa phù hợp.

Khuyến nghị cho Việt Nam
Theo các chuyên gia, tính đến hết năm 2024, tại Việt Nam có khoảng 10 cơ sở giáo dục đã tuyển sinh và đào tạo ngành FinTech. ThS. Phan Thị Mai Hương, Khoa Tài chính -Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội cho biết, với sự phát triển nhanh chóng của ngành FinTech, việc thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực này trở thành một thách thức lớn đối với các công ty trong và ngoài nước. Đặc biệt, Việt Nam đang thiếu hụt các chuyên gia có kỹ năng chuyên sâu về các công nghệ mới như blockchain, AI, dữ liệu lớn và bảo mật thông tin. Vì vậy, việc phát triển các chương trình đào tạo đại học về FinTech là một yếu tố then chốt trong việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cho ngành này. Theo khảo sát của Hiệp hội FinTech Việt Nam năm 2021, hơn 80% các DN FinTech đánh giá nguồn nhân lực từ các trường đại học là chất lượng và đáp ứng được yêu cầu công việc. Nhiều doanh nghiệp (DN) FinTech như NextPay, Momo, Trusting Social cũng thừa nhận các nhân tài của họ đều có nguồn gốc từ những trường đại học hàng đầu về công nghệ và tài chính.
Ngoài ra, hiện có nhiều trường đại học còn tổ chức các khóa học, chứng chỉ ngắn hạn về FinTech để cập nhật kiến thức cho DN và cá nhân. Những sinh viên tốt nghiệp từ các chương trình này đã nhanh chóng được các công ty FinTech lớn tại Việt Nam như MoMo, ZaloPay và các ngân hàng số tuyển dụng.
Cho rằng lĩnh vực đào tạo FinTech tại các trường đại học ở Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức, ông Nguyễn Thanh Bình, Trưởng phòng công nghệ Blockchain -Khối công nghệ - VNPAY khuyến nghị, Việt Nam có thể rút ra nhiều bài học từ sự phát triển FinTech tại các thị trường lớn như Mỹ, Anh, Ấn Độ, Trung Quốc và Singapore để thúc đẩy ngành công nghệ tài chính trong nước. Trước hết, việc xây dựng một hệ sinh thái FinTech mạnh mẽ cần sự hỗ trợ chặt chẽ từ chính phủ, thông qua các chính sách khuyến khích đổi mới và khung pháp lý linh hoạt. Mỹ và Anh đã thành công nhờ triển khai sandbox thử nghiệm, tạo điều kiện cho các công ty FinTech kiểm tra sản phẩm trong môi trường được giám sát trước khi ra mắt chính thức. Việt Nam có thể học hỏi bằng cách mở rộng sandbox FinTech, giúp các DN dễ dàng thử nghiệm và phát triển công nghệ tài chính mới. Ngoài ra, việc đơn giản hóa các quy trình pháp lý và thúc đẩy Open Banking sẽ giúp các công ty FinTech trong nước tiếp cận dữ liệu tài chính an toàn, tạo điều kiện cho các mô hình kinh doanh sáng tạo.

Tại Hội thảo nhiều giảng viên, sinh viên còn được lĩnh hội kiến thức từ những “người khổng lồ” đang “thực chiến” trong lĩnh vực FinTech như Momo, VNPay, các dấu hiệu lừa đảo và nhận biết phòng tránh...Những chủ đề chia sẻ vô cùng đa dạng từ hoạt động tương tác trực tiếp đã giúp giảng viên, sinh viên tiếp thu những thông tin nhanh chóng, trực quan và hiệu quả, đồng thời có những góc nhìn đa chiều về ngành nghề - bước quan trọng để định hình chuyên môn làm việc cụ thể và hạn chế bỡ ngỡ.
Các chuyên gia cũng chia sẻ nhiều kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ nguồn nhân lực cho phát triển ngành FinTech như: thành lập các trung tâm nghiên cứu FinTech và Blockchain tại các khu vực, thành phố lớn nhằm trực tiếp hỗ trợ về chuyên môn, kĩ thuật cũng như hướng dẫn chính sách cho sự phát triển của FinTech; khuyến khích các trường đại học mở các chuyên ngành đào tạo FinTech nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực này; khuyến khích công tác đào tạo nguồn nhân lực cho hệ sinh thái FinTech, chú trọng chương trình đào tạo thực hành nhằm tạo điều kiện cho người học tiếp cận thực tập tại các công ty FinTech./.